Trên cơ sở Nghị quyết số 110/NQ-CP ngày 21 tháng 7 năm 2023 của Chính phủ và ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên đã ký Hiệp định này với đại diện được ủy quyền của I-xra-en vào ngày 25 tháng 7 năm 2023 tại I-xra-en. Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam – I-xra-en (VIFTA) chính thức có hiệu lực từ ngày 17 tháng 11 năm 2024. VIFTA được đánh giá là một hiệp định có phạm vi cam kết sâu và rộng, phản ánh mức độ tin cậy chiến lược ngày càng cao giữa Việt Nam và I-xra-en – quốc gia có nền kinh tế phát triển hàng đầu về công nghệ cao, đổi mới sáng tạo và nông nghiệp thông minh. Với hiệp định này, hai bên kỳ vọng sẽ khai thác tối đa tính bổ trợ của hai nền kinh tế.
Các cam kết về phòng vệ thương mại trong Hiệp định VIFTA được quy định tại Chương 5 của Hiệp định, trong đó chia thành 2 Mục gồm Mục A. Biện pháp tự vệ song phương, Mục B. Biện pháp tự vệ toàn cầu, và Mục C. Các biện pháp chống bán phá giá và chống trợ cấp, trong đó:
1. Đối với các biện pháp tự vệ song phương
Một Bên có thể áp dụng một biện pháp tự vệ song phương: (a) chỉ trong giai đoạn chuyển tiếp; và (b) nếu kết quả của việc cắt giảm hoặc xóa bỏ thuế quan theo Hiệp định này dẫn đến một hàng hóa có xuất xứ được nhập khẩu vào lãnh thổ của Bên đó với số lượng tăng tuyệt đối hoặc tăng tương đối so với sản lượng trong nước và với những điều kiện này chỉ riêng việc nhập khẩu hàng hóa có xuất xứ của Bên đó tạo thành nguyên nhân trọng yếu gây thiệt hại nghiêm trọng hoặc đe dọa gây thiệt hại nghiêm trọng cho một ngành sản xuất trong nước.
Nếu các điều kiện trên được thoả mãn, ở mức độ tối thiểu cần thiết để ngăn ngừa hoặc khắc phục thiệt hại nghiêm trọng hoặc đe dọa gây thiệt hại nghiêm trọng, một Bên có thể:
(a) ngừng việc cắt giảm thêm bất kỳ mức thuế suất nào được quy định theo Hiệp định này đối với hàng hóa đó; hoặc
(b) tăng thuế suất đối với hàng hóa đó đến một mức không cao hơn mức thấp hơn trong các mức sau: (i) thuế suất theo nguyên tắc tối huệ quốc (MFN) được áp dụng có hiệu lực tại thời điểm biện pháp được áp dụng, hoặc (ii) thuế suất cơ sở được quy định trong biểu lộ trình tại Phụ lục 2B (Cắt giảm hoặc Xoá bỏ Thuế quan).
2. Đối với các biện pháp tự vệ toàn cầu
Cam kết về các biện pháp tự vệ toàn cầu trong Hiệp định VIFTA nhìn chung ngang và dẫn chiếu đến các cam kết trong khuôn khổ WTO. Theo đó, mỗi Bên bảo lưu các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định tại Điều XIX của GATT 1994 và Hiệp định về các biện pháp tự vệ.
Đối với cùng một hàng hóa, một Bên không áp dụng đồng thời: (a) một biện pháp tự vệ song phương; và (b) một biện pháp theo quy định tại Điều XIX của GATT 1994 và Hiệp định về các biện pháp tự vệ.
Đối với hàng hóa nhập khẩu có xuất xứ từ lãnh thổ của một Bên vào lãnh thổ của Bên kia mà không phải là nguyên nhân gây thiệt hại nghiêm trọng hoặc đe dọa gây thiệt hại nghiêm trọng cho ngành sản xuất trong nước sản xuất hàng hóa tương tự hoặc hàng hóa cạnh tranh trực tiếp của Bên nhập khẩu, các biện pháp tự vệ với đối với việc nhập khẩu hàng hóa đó không áp dụng.
Khi xác định liệu nhập khẩu hàng hóa từ Bên kia có phải là nguyên nhân gây hoặc đe dọa gây thiệt hại nghiêm trọng hay không, cơ quan điều tra có thẩm quyền của Bên nhập khẩu có thể xem xét các yếu tố như tỷ trọng nhập khẩu và lượng nhập khẩu của Bên kia, và sự thay đổi của các yếu tố này, cùng với các yếu tố khác.
Các điều kiện và hạn chế sau đây phải được áp dụng cho một quy trình điều tra mà có thể dẫn đến biện pháp tự vệ toàn cầu bao gồm:
(a) không chậm trễ, Bên khởi xướng điều tra phải gửi cho Bên kia thông báo bằng văn bản, bao gồm tất cả các thông tin thích đáng dẫn đến việc khởi xướng điều tra tự vệ toàn cầu và đưa ra khả năng tham vấn cho Bên kia;
(b) trong trường hợp mức thuế suất được tăng lên do kết quả của một biện pháp, mức chênh lệch ưu đãi theo quy định tại Hiệp định này phải được giữ nguyên;
(c) khi chấm dứt biện pháp, mức thuế suất phải là mức thuế suất ưu đãi có hiệu lực nếu biện pháp đó không được áp dụng. Nếu hạn ngạch thuế quan được áp dụng như một biện pháp tự vệ toàn cầu thì hạn ngạch đó sẽ được xóa bỏ khi chấm dứt biện pháp tự vệ toàn cầu.
3. Các biện pháp chống bán phá giá và chống trợ cấp
Hai Bên nhất trí rằng các biện pháp chống bán phá giá và chống trợ cấp phải được sử dụng hoàn toàn phù hợp với Điều VI của GATT 1994, Hiệp định WTO về Thực thi Điều VI của GATT 1994 và Hiệp định WTO về Trợ cấp và các biện pháp chống trợ cấp.
Các Bên phải đảm bảo việc công bố đầy đủ và có ý nghĩa tất cả các dữ kiện và cân nhắc trọng yếu hình thành cơ sở cho quyết định áp dụng các biện pháp chống bán phá giá và chống trợ cấp. Việc công bố phải được thực hiện bằng văn bản và cho phép các bên liên quan có đủ thời gian để phản hồi bằng các bình luận. Sau khi công bố thông tin cuối cùng, các bên liên quan phải có ít nhất bảy ngày để đưa ra bình luận.
Nếu trong một cuộc điều tra chống bán phá giá hoặc chống trợ cấp liên quan đến nhập khẩu từ Bên kia, cơ quan điều tra xác định rằng một trả lời đúng hạn yêu cầu cung cấp thông tin chưa đáp ứng được yêu cầu của cơ quan điều tra:
(a) cơ quan điều tra phải thông báo cho bên liên quan đã nộp trả lời về bản chất của thiếu sót và, trong phạm vi có thể thực hiện được dựa trên thời hạn hoàn thành việc điều tra chống bán phá giá hoặc chống trợ cấp, tạo cơ hội cho bên liên quan đó khắc phục hoặc giải thích sự thiếu sót.
(b) nếu bên liên quan gửi thêm thông tin để trả lời về thiếu sót và cơ quan điều tra xác định rằng câu trả lời không thỏa đáng hoặc trả lời không được nộp trong thời hạn quy định, và nếu cơ quan điều tra không ghi nhận tất cả hoặc một phần của bản trả lời ban đầu và các bản trả lời sau đó, cơ quan điều tra phải giải thích trong quyết định hoặc văn bản khác về lý do không ghi nhận các thông tin này.
4. Tác động đến Việt Nam
Các cam kết về phòng vệ thương mại trong Hiệp định VIFTA nhìn chung đều không cao hơn cam kết trong các FTA thế hệ mới mà Việt Nam tham gia. Các biện pháp này trong Hiệp định VIFTA mang lại “đệm an toàn” cho doanh nghiệp Việt Nam – nếu hàng nhập khẩu từ Israel tăng quá nhanh gây áp lực cho sản xuất nội địa, thì vẫn có cửa áp dụng biện pháp bảo hộ tạm thời. Nhờ đó, khi mở cửa thị trường, các bên có thể yên tâm hơn.
Tuy nhiên, ở chiều ngược lại, nếu hàng Việt Nam sang Israel tăng nhanh, Israel có quyền áp các biện pháp phòng vệ thương mại. Điều này đòi hỏi doanh nghiệp Việt phải chuẩn bị kỹ hơn về hệ thống kế toán, hồ sơ chi phí – giá thành, tuân thủ quy định về khai báo và hợp tác với cơ quan điều tra nước nhập khẩu. Đồng thời, cần theo dõi sát xu hướng xuất khẩu để kịp thời cảnh báo rủi ro, tránh bị áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại bất lợi.
Nguồn: Vụ Chính sách thương mại đa biên, Bộ Công Thương
