Chính thức có hiệu lực từ 14/01/2019, Hiệp định đối tác toàn diện và phát triển xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) được dự đoán tạo ra cú hích lớn với nhiều ngành, lĩnh vực. Bên cạnh dệt may, da giày, thủy sản... được nhắc đến với nhiều kỳ vọng lạc quan, tác động của CPTPP tới ngành thép lại đặt ra dấu hỏi lớn. Bởi song song với tiến trình mở cửa, ngành thép những năm qua liên tục đối mặt với các vụ kiện hay làn sóng bảo hộ thương mại tại nhiều quốc gia.
Trước đó, ASEAN và Mỹ là hai thị trường dẫn đầu về xuất khẩu thép của Việt Nam. Tuy nhiên, trong bối cảnh chủ nghĩa bảo hộ tăng cao, theo các chuyên gia, việc chuyển hướng xuất khẩu, mở rộng sang các thị trường khác là cần thiết. Đây cũng là cơ hội để doanh nghiệp thép Việt tìm kiếm đối tác, thu hút đầu tư, nhập khẩu máy móc công nghệ cao để nâng cao hàm lượng giá trị sản phẩm, từ đó tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Tiêu chí xuất xứ cụ thể áp dụng cho mặt hàng sắt thép và sản phẩm sắt thép được quy định tại Phụ lục 3-D, Chương 3, Hiệp định CPTPP, và được nội luật hoá tại Phụ lục 1 ban hành kèm theo Thông tư số 03/2019/TT-BCT ngày 22 tháng 1 năm 2019 của Bộ trưởng Bộ Công Thương quy định quy tắc xuất xứ hàng hoá trong Hiệp định CPPTP. Như vậy, thương nhân có thể tra cứu danh mục PSR bằng tiếng Việt tại Thông tư số 03/2019/TT-BCT.
Với sản phẩm sắt thép có mã HS thuộc Chương 72, thương nhân được áp dụng lựa chọn một trong hai tiêu chí sau:
Thứ nhất, Chuyển đổi mã số hàng hoá ở cấp độ Chương (CC) hay được phép sử dụng nguyên liệu không có xuất xứ nằm ngoài Chương 72; hoặc
Thứ hai, Chuyển đổi mã số hàng hoá ở cấp độ Nhóm (CTH) với một số nguyên liệu bị loại trừ, hoặc đáp ứng RVC 35% theo công thức trực tiếp hoặc 45% theo công thức gián tiếp.
Đối với sản phẩm sắt thép thuộc Chương 73, tiêu chí xuất xứ trong CPTPP áp dụng tiêu chí Chuyển đổi mã số hàng hoá ở cấp độ Chương (CC) hoặc cấp độ Nhóm (CTH) hoặc Hàm lượng giá trị khu vực RVC đạt 30%-35% theo công thức trực tiếp hoặc 40%-45% theo công thức gián tiếp hoặc 50% theo công thức tính giá trị tập trung đối với một số nguyên liệu không có xuất xứ.
Các nước thành viên CPTPP là nguồn cung cấp nguyên vật liệu chủ yếu để sản xuất thép cho các doanh nghiệp Việt Nam. Đơn cử, Úc là nước cung cấp than đá và quặng chủ yếu cho nước ta, lần lượt chiếm 25,7% và 22,9% tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam. Ngoài ra, hơn 50% lượng sắt thép phế liệu nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất phôi cũng là từ các nước thuộc CPTPP. Một số thành viên như Ca-na-đa, Malaysia cũng có nhu cầu lớn nhập khẩu nhiều thép thành phẩm.
Để được hưởng ưu đãi thuế quan từ Hiệp định CPTPP, sắt thép và sản phẩm sắt thép xuất khẩu của Việt Nam phải đáp ứng các quy định về quy tắc xuất xứ hàng hóa theo Hiệp định này và được cấp Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa (C/O) mẫu CPTPP.
Các thị trường xuất khẩu sắt thép và sản phẩm sắt thép của Việt Nam tại các nước CPTPP sử dụng C/O mẫu CPTPP chủ yếu là Ca-na-đa, Mê-hi-cô và Úc. Trong đó, Mê-hi-cô là thị trường nhập khẩu sắt thép và sản phẩm sắt thép lớn nhất của Việt Nam, 9 tháng đầu năm 2023, kim ngạch xuất khẩu sử dụng C/O mẫu CPTPP của mặt hàng này sang Mê-hi-cô là lớn nhất, đạt 302 triệu USD, chiếm tỷ trọng 86,59% trong tổng trị giá C/O mẫu CPTPP đối với mặt hàng sắt thép và sản phẩm sắt thép.
Xuất khẩu sắt thép và sản phẩm sắt thép sang thị trường Mê-hi-cô tăng nhanh kể từ khi có Hiệp định CPTPP, tỷ lệ cấp C/O mẫu CPTPP của mặt hàng này sang thị trường Mê-hi-cô trung bình đạt trên 95% so với tổng kim ngạch xuất khẩu. Việc gia tăng kim ngạch xuất khẩu sang thị trường mới là tín hiệu đáng mừng của ngành sắt thép Việt Nam. Tuy nhiên, các doanh nghiệp cần cẩn trọng khi xuất khẩu sang thị trường này, khi kim ngạch xuất khẩu tăng quá nhanh có thể dẫn đến việc nước nhập khẩu xem xét áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại để bảo hộ ngành sản xuất trong nước.
Để xuất khẩu sang các thị trường CPTPP nói riêng và thế giới nói chung, các doanh nghiệp xuất khẩu sắt thép và sản phẩm sắt thép của Việt Nam cần tìm hiểu thông tin thị trường và quy định của nước sở tại (có thể thông qua hệ thống thương vụ Việt Nam tại nước ngoài) để có kế hoạch phát triển thị trường phù hợp, chủ động vươn tầm khu vực, đẩy mạnh sản xuất để xuất khẩu trong bối cảnh chuỗi cung ứng toàn cầu bị gián đoạn do đại dịch Covid-19.
