Phòng vệ thương mại
Các chính sách cập nhật

Yêu cầu để khởi xướng điều tra áp dụng biện pháp tự vệ

Thứ Hai, 27/11/2023


1. Căn cứ pháp lý

- Hiệp định về tự vệ của WTO;

- Luật Quản lý ngoại thương số 05/2017/QH14 ngày 12 tháng 6 năm 2017;

- Nghị định số 10/2018/NĐ-CP ngày 15 tháng 01 năm 2018 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Quản lý ngoại thương về các biện pháp phòng vệ thương mại (“Nghị định số 10/2018/NĐ-CP);

- Thông tư số 06/2018/TT-BCT ngày 20 tháng 4 năm 2018 quy định chi tiết một số nội dung về các biện pháp phòng vệ thương mại (“Thông tư số 06/2018/TT-BCT”).

2. Ai là người chuẩn bị và nộp hồ sơ

Tổ chức, cá nhân đại diện cho ngành sản xuất trong nước có quyền nộp hồ sơ yêu cầu áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại (sau đây gọi là “Bên yêu cầu”) trong trường hợp nhận thấy hàng hóa nhập khẩu quá mức gây ra thiệt hại của ngành sản xuất trong nước.[1] Tổ chức, cá nhận nộp hồ sơ cần đáp ứng các yêu cầu về tính đại diện nêu tại Mục 3 dưới đây.

Trong trường hợp không có Bên yêu cầu nhưng có dấu hiệu rõ ràng về việc hàng hóa nhập khẩu quá mức gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho ngành sản xuất trong nước, Cơ quan điều tra tiến hành lập Hồ sơ yêu cầu áp dụng biện pháp chống bán phá giá để trình Bộ trưởng Bộ Công Thương xem xét quyết định điều tra.[2] Tuy nhiên, cho tới nay, trong tất cả các vụ việc điều tra PVTM, việc khởi xướng điều tra đều dựa trên hồ sơ yêu cầu của đại diện ngành sản xuất trong nước.

3. Tính đại diện của Bên yêu cầu

  Tổ chức, cá nhân nộp hồ sơ yêu cầu áp dụng biện pháp tự vệ được coi là đại diện cho ngành sản xuất trong nước khi đáp ứng đủ 2 điều kiện sau đây:

  - Lượng hàng hóa tương tự, hàng hóa cạnh tranh trực tiếp của các nhà sản xuất trong nước nộp hồ sơ và ủng hộ vụ việc chiếm ít nhất 25% tổng lượng hàng hóa tương tự, hàng hóa cạnh tranh trực tiếp được sản xuất trong nước; cung cấp danh sách các doanh nghiệp sản xuất.[3]

- Sau khi nhận bản trả lời câu hỏi của các doanh nghiệp sản xuất trong nước, để số liệu này được xem xét thì lượng hàng hoá sản xuất bởi các doanh nghiệp này phải chiếm ít nhất 50% lượng hàng hoá tương tự/cạnh tranh trực tiếp trong tổng lượng hàng hoá của ngành sản xuất trong nước (tỷ lệ chủ yếu) (có thể xem xét tỷ lệ thấp hơn nếu có bằng chứng cho rằng tỷ lệ đó là đủ để coi là chiếm tỷ lệ chủ yếu)[4].

4. Điều kiện áp dụng biện pháp tự vệ

Các biện pháp tự vệ bao gồm: Áp thuế tự vệ; hạn ngạch nhập khẩu; hạn ngạch thuế quan; Cấp giấy phép nhập khẩu; Các biện pháp tự vệ khác.

Biện pháp tự vệ chỉ có thể được áp dụng khi hàng hóa nhập khẩu có sự gia tăng đột biến, do những diễn biến không lường trước được và gây thiệt hại/đe dọa gây thiệt hại nghiêm trọng, mối quan hệ nhân quả giữa sự gia tăng của hàng nhập khẩu và thiệt hại.

Loại trừ Trong trường hợp hàng hóa nhập khẩu có xuất xứ từ một nước đang phát triển có khối lượng hoặc số lượng không vượt quá 3% tổng khối lượng hoặc số lượng hàng hóa tương tự nhập khẩu vào Việt Nam và tổng khối lượng hoặc số lượng hàng hóa có xuất xứ từ các nước đang phát triển đáp ứng điều kiện trên không vượt quá 9% tổng khối lượng hoặc số lượng hàng hóa tương tự nhập khẩu vào Việt Nam thì các nước này được loại khỏi phạm vi áp dụng biện pháp tự vệ.

Hàng hóa:

+ Thông tin về hàng hoá bị điều tra, hàng hoá tương tự/cạnh tranh trực tiếp (tên khoa học, tên thương mại, tên thường gọi; thành phần; các đặc tính vật lý, hóa học cơ bản; mục đích sử dụng chính; quy trình sản xuất; tiêu chuẩn, quy chuẩn quốc tế và Việt Nam; mã số hàng hóa theo Danh mục hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu Việt Nam và mức thuế nhập khẩu có hiệu lực);

+ Thông tin về lượng và trị giá hàng hóa nhập khẩu, hàng hoá tương tự/cạnh tranh trực tiếp của ngành sản xuất trong nước trong thời kỳ 03 năm trước khi nộp Hồ sơ. Nếu ngành sản xuất trong nước hoạt động ít hơn 03 năm, dữ liệu thu thập sẽ là toàn bộ thời gian hoạt động của ngành sản xuất trong nước tính đến thời điểm nộp Hồ sơ.

Lưu ý: Hàng hoá tương tự: là hàng hoá có tất cả các đặc tính giống với hàng hoá bị điều tra. Trong trường hợp không có hàng hoá nào như vậy thì hàng hoá tương tự là hàng hoá có nhiều đặc tính cơ bản giống với hàng hoá bị điều tra.[5]

Hàng hoá cạnh tranh trực tiếp: là hàng hoá có khả năng được người mua chấp nhận thay thế cho hàng hoá thuộc phạm vi áp dụng các biện pháp tự vệ do ưu thế về giá, mục đích sử dụng.[6]

Thiệt hại

Xác định thiệt hại/đe dọa gây thiệt hại nghiêm trọng của ngành sản xuất trong nước qua các yếu tố:

a) Mức độ gia tăng lượng hàng hóa nhập khẩu một cách tuyệt đối hoặc tương đối so với lượng hàng hóa tương tự hoặc hàng hóa cạnh tranh trực tiếp sản xuất trong nước;

b) Mức độ gia tăng lượng hàng hóa nhập khẩu do tác động của những diễn biến không lường trước;

c) Tác động về giá của hàng hóa nhập khẩu bị điều tra đối với giá của hàng hóa tương tự hoặc hàng hóa cạnh tranh trực tiếp sản xuất trong nước;

d) Tác động của việc gia tăng nhập khẩu hàng hóa bị điều tra đến ngành sản xuất trong nước thông qua các yếu tố: Thị phần, doanh thu, lượng bán hàng, sản lượng, công suất thiết kế, công suất sử dụng, năng suất, lợi nhuận, lỗ, lao động, tồn kho và các yếu tố khác…- Ngoài ra, xác định đe dọa gây thiệt hại đáng kể của ngành sản xuất trong nước dựa trên cơ sở xem xét các yếu tố sau đây:

(a) Sự gia tăng tuyệt đối hoặc tương đối của khối lượng, số lượng hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam so với khối lượng, số lượng hàng hóa tương tự sản xuất trong nước;

(b) Năng lực sản xuất của nhà sản xuất, xuất khẩu nước ngoài đủ lớn hoặc có thể gia tăng đáng kể trong tương lai gần dẫn đến khả năng gia tăng đáng kể của khối lượng, số lượng hàng hóa bị điều tra nhập khẩu vào Việt Nam;

c) Hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam làm giảm giá đáng kể, hoặc kìm giá ở mức đáng kể, hoặc ngăn không cho tăng đáng kể giá bán của hàng hóa tương tự sản xuất trong nước, dẫn đến khả năng gia tăng nhu cầu đối với hàng hóa nhập khẩu;

(d) Số liệu tồn kho của hàng hóa bị điều tra;

(e) Các yếu tố khác.

Việc xem xét tổng hợp các yếu tố quy này cho thấy khả năng thực tế gia tăng nhập khẩu hàng hóa và nếu không áp dụng biện pháp thì thiệt hại nghiêm trọng sẽ xảy ra.

Mối quan hệ nhân quả: Thông tin về mối quan hệ nhân quả giữa việc nhập khẩu hàng hoá và thiệt hại.

Khi xác định mối quan hệ nhân quả giữa việc gia tăng hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam với thiệt hại nghiêm trọng hoặc đe dọa gây thiệt hại nghiêm trọng cho ngành sản xuất trong nước, cần xem xét:

(a) Việc gia tăng hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam là nguyên nhân gây ra thiệt hại nghiêm trọng hoặc đe dọa gây thiệt hại nghiêm trọng cho ngành sản xuất trong nước.

(b) Các yếu tố khác ngoài việc gia tăng hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại nghiêm trọng sẽ không được xem xét vào ảnh hưởng do hàng hóa nhập khẩu gây ra, như:

(i) Mức độ giảm sút của cầu tiêu dùng hoặc sự thay đổi về hình thức tiêu dùng đối với hàng hóa tương tự sản xuất trong nước;

(ii) Hành vi hạn chế thương mại, sự cạnh tranh giữa các nhà sản xuất trong nước và nước ngoài;

(iii) Sự phát triển của công nghệ;

(iv) Khả năng xuất khẩu và năng suất của ngành sản xuất trong nước;

(v) Các yếu tố khác mà Cơ quan điều tra thấy phù hợp.

Diễn biến không lường trước được: việc hàng nhập khẩu bị yêu cầu điều tra gia tăng là do các tình huống mà không lường trước được tại thời điểm Hiệp định WTO có hiệu lực.


[1] Khoản 1 Điều 70 Luật Quản lý ngoại thương;

[2] Khoản 1 Điều 48 Nghị định số 10/2018/NĐ-CP;

[3] Theo khoản 1 Điều 46 Nghị định 10/2018/NĐ-CP ngày 15 tháng 01 năm 2018.

[4] Theo khoản 2 Điều 4 Nghị định 10/2018/NĐ-CP ngày 15 tháng 01 năm 2018.

[5] Khoản 1 Điều 69 Luật Quản lý ngoại thương.

[6] Khoản 1 Điều 93 Luật Quản lý ngoại thương.


Bài viết liên quan