...
Nhật Bản
THÔNG TIN CHUNG

Tình hình xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang Nhật Bản

Thứ Bảy, 03/06/2023

Ngành dệt may Việt Nam trong năm 2022 tiếp tục duy trì đà tăng trưởng xuất khẩu, nhưng xuất hiện nhiều khó khăn vào giai đoạn cuối năm. Tổng kim ngạch xuất khẩu dệt may năm 2022 đạt 44 tỷ USD (tăng 8,8% so với năm 2021), đứng thứ 3 thế giới (sau Trung Quốc và Bangladesh), trong đó xuất khẩu sang các thị trường chính như Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, EU đều tăng so với năm 2021.

Ngành dệt may Việt Nam trong năm 2022 tiếp tục duy trì đà tăng trưởng xuất khẩu, nhưng xuất hiện nhiều khó khăn vào giai đoạn cuối năm. Tổng kim ngạch xuất khẩu dệt may năm 2022 đạt 44 tỷ USD (tăng 8,8% so với năm 2021), đứng thứ 3 thế giới (sau Trung Quốc và Bangladesh), trong đó xuất khẩu sang các thị trường chính như Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, EU đều tăng so với năm 2021. 

Tiếp đà suy giảm từ những tháng cuối năm 2022, trong 5 tháng đầu năm 2023 ngành dệt may Việt Nam đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam 5 tháng đầu năm 2023 đạt 12,65 tỷ USD, giảm 15,6% so với cùng kỳ năm 2022. Xuất khẩu sang các thị trường chính như Trung Quốc, Mỹ, EU giảm lần lượt 13%, 27%, 7,5%, chỉ có xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản tăng 6,6%. 

Nhật Bản luôn là một trong những thị trường quan trọng đối với xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam trong nhiều năm nay. Tính 5 tháng đầu năm 2023, trong khi xuất khẩu hàng dệt may giảm mạnh ở những thị trường lớn như Trung Quốc, Mỹ, EU… xuất khẩu sang Nhật Bản vẫn đạt tăng trưởng tích cực ở mức 6,6% với kim ngạch 1,42 tỷ USD, với nguyên nhân được cho là để phục vụ nhu cầu tiêu dùng của một lượng rất lớn khách Trung Quốc và các nước trở lại du lịch Nhật Bản sau khoảng thời gian đóng cửa vì dịch Covid-19.

Một số thuận lợi và khó khăn cho hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản trong thời gian tới bao gồm:

1. Về thuận lợi:

(i) Lợi thế đón đầu xu hướng chuyển dịch sản xuất dệt may trên thế giới: rủi ro địa chính trị toàn cầu khiến các nhà đầu tư quốc tế chuyển dịch đầu tư/sản xuất sang các quốc gia/khu vực an toàn hơn (trong đó có Việt Nam) để tránh bị áp thuế suất cao, được hưởng mức thuế suất thấp từ các FTA mà Việt Nam tham gia; 

(ii) Sự phát triển của thương mại điện tử tại Nhật Bản: Bán hàng qua kênh thương mại điện tử chiếm gần 14% trong tổng doanh số bán lẻ hàng may mặc tại Nhật Bản trong năm 2019. Hàng may mặc là sản phẩm có tốc độ tăng trưởng bán hàng cao nhất trên kênh thương mại điện tử (xếp trên hàng thực phẩm và thực phẩm chức năng) vì những lí do: Các rào cản mua hàng thời trang trực tuyến giảm đi khi việc giao hàng có thể thực hiện ngay trong ngày hoặc tính thuận tiện khi có thể trả lại hàng không phù hợp giúp người tiêu dùng tự tin mua hàng mà không cần thử trước; Người dân Nhật Bản có thời gian dài di chuyển hàng ngày bằng phương tiện công cộng, do đó họ dành nhiều thời gian sử dụng điện thoại thông minh trên mạng Internet, trong đó có hoạt động mua sắm trực tuyến.

(iii) Nhu cầu gia tăng đối với một số mặt hàng may mặc cụ thể: thời trang cho người già, thời trang thể thao, quần áo dành cho phụ nữ công sở, thời trang cao cấp cho người giàu hoặc khách du lịch…

2. Về khó khăn:

(i) Nhu cầu tiêu dùng hàng may mặc của người dân Nhật Bản có xu hướng giảm sút, do Nhật Bản hiện phải đối mặt tình trạng lạm phát cao, nội tệ suy yếu, khiến người dân phải cắt giảm chi tiêu, nhất là các sản phẩm may mặc;

(ii) Năng lực tự chủ của ngành dệt may và doanh nghiệp Việt Nam còn hạn chế: Ngành công nghiệp phụ trợ tại Việt Nam còn yếu, chưa phát triển tương xứng với tiềm năng. Khả năng tự chủ nguồn cung bông, vải còn gặp khó khăn trong khi phải tuân thủ quy định của các FTA thế hệ mới về quy tắc xuất xứ; Cơ cấu gia công sản phẩm cho các thương hiệu nước ngoài chiếm tỷ trọng cao, thương hiệu của Việt Nam còn yếu; Ứng dụng khoa học – công nghệ trong sản xuất chưa bắt kịp xu hướng thị trường, quy mô tự động hóa dệt may Việt Nam còn ở mức trung bình và thuộc nhóm ngành thâm dụng lao động; Doanh nghiệp Việt Nam gặp nhiều khó khăn do thiếu hụt đơn hàng, thiếu vốn do lãi suất ngân hàng tăng, trong khi chi phí nguyên phụ liệu, vận chuyển, năng lượng… gia tăng, yêu cầu phát triển bền vững, chuyển đổi số, kinh doanh tuần hoàn, truy soát nguồn gốc ngày càng chặt chẽ.

(iii) Sản phẩm dệt may Việt Nam chịu sự cạnh tranh ngày càng gay gắt từ các nước xuất khẩu lớn trên thế giới như Trung Quốc, Bangladesh, Ấn Độ…, là những nước có cơ sở hạ tầng công nghiệp hoàn thiện, tự chủ được nguồn cung nguyên phụ liệu, lao động tay nghề cao, thời gian xử lý đơn hàng nhanh, chú trọng tăng cường cải thiện chất lượng/giá thành sản phẩm để chiếm lĩnh các thị trường truyền thống và mở rộng thị trường mới; Nhiều thương hiệu nước ngoài lớn trong lĩnh vực thời trang (Zara, H&M, Uniqlo…) tham gia sâu vào thị trường nội địa, tăng cạnh tranh với các doanh nghiệp trong nước.

Thị trường sản phẩm thời trang của Nhật Bản đã phát triển ở mức tương đối bão hòa, do vậy một sản phẩm mới muốn thâm nhập vào Nhật Bản cần chú trọng đến đặc điểm nhận diện riêng của sản phẩm/thương hiệu, phải thật sự khác biệt so với các thương hiệu khác. Một số lưu ý cho doanh nghiệp dệt may khi muốn đưa sản phẩm của mình thâm nhập thành công vào thị trường Nhật Bản bao gồm:

- Tính mùa vụ: Nhật Bản có khí hậu bốn mùa với nhiệt độ khác nhau rõ rệt, do vậy các sản phẩm thời trang cần phải đa dạng để phù hợp với từng mùa. Ví dụ nhu cầu mua áo khoác dày tăng cao vào mùa đông trong khi mùa hè người tiêu dùng ưa chuộng các sản phẩm áo phông. Ngoài ra nhu cầu tiêu dùng sản phẩm may mặc tăng vào dịp Giáng sinh, hay vào đầu tháng 4 là giai đoạn khởi đầu năm học mới/năm làm việc mới tại Nhật Bản...

- Quy mô lô sản xuất: Xu hướng thời trang tại Nhật Bản thường thay đổi rất nhanh, đòi hỏi các doanh nghiệp cần phải liên tục theo dõi, nắm bắt xu hướng tiêu dùng tại Nhật Bản để thiết kế một hệ thống sản xuất các lô hàng quy mô vừa và nhỏ có thể kịp thay đổi nếu cần thiết, cung ứng đa dạng những hàng hóa mới trong thời gian ngắn nhằm bắt kịp những biến động của thị trường.

- Tiêu chuẩn chất lượng: Có trường hợp hàng hóa đáp ứng tiêu chuẩn chất lượng ở nước xuất khẩu nhưng không đáp ứng được tiêu chuẩn chất lượng của Nhật Bản, bởi vì tiêu chuẩn chất lượng ở Nhật Bản thường khắt khe hơn ở các quốc gia khác. Liên quan đến tiêu chí chất lượng, Nhật Bản áp dụng Đạo luật Trách nhiệm sản phẩm, trong đó quy định rằng nhà sản xuất (đối với sản phẩm nội địa) hoặc nhà nhập khẩu (đối với hàng hóa nhập khẩu từ nước ngoài) phải chịu trách nhiệm cho bất cứ vấn đề gì liên quan tới sức khỏe người tiêu dùng phát sinh do khiếm khuyết của hàng hóa. Trong những hàng hóa là đối tượng áp dụng của đạo luật này có một số sản phẩm hàng dệt may bao gồm quần áo, túi xách…, do vậy đây cũng là một vấn đề mà các nhà xuất khẩu cần lưu ý.

Nguồn: Vụ Thị trường châu Á – châu Phi, Bộ Công Thương



 

Bài viết liên quan