Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, ngành chăn nuôi đã đóng góp gần 27% GDP ngành nông nghiệp Việt Nam. Sản phẩm của ngành chăn nuôi không những đáp ứng nhu cầu tiêu dùng thực phẩm cho 100 triệu dân trong nước mà còn góp phần thực hiện mục tiêu xuất khẩu. Tính lũy kế 9 tháng đầu năm 2023, tổng giá trị xuất khẩu các sản phẩm chăn nuôi đạt 369 triệu USD, tăng 26,4% so với cùng kỳ năm 2022. Trong đó, xuất khẩu sữa và sản phẩm sữa đạt 101 triệu USD, tăng 23,6%; xuất khẩu thịt, phụ phẩm dạng thịt và phụ phẩm ăn được sau giết mổ của động vật đạt 106 triệu USD, tăng 35,9%. Trong bối cảnh xuất khẩu chung gặp nhiều khó khăn, việc tăng trưởng xuất khẩu đạt mức 2 con số của ngành chăn nuôi là một điểm sáng.
Về thị trường xuất khẩu chính cho các sản phẩm thịt lợn, Việt Nam xuất khẩu thịt lợn sữa đông lạnh nhiều nhất sang Hồng Công (Trung Quốc), xuất khẩu thịt lợn tươi, ướp lạnh hoặc đông lạnh sang các thị trường Papua New Guinea, Lào, Malaysia. Đối với sản phẩm thịt gia cầm, hiện nay Việt Nam xuất khẩu thịt gà chế biến sang 7 thị trường bao gồm: Nhật Bản, Hồng Kông, Nga, Belarus, Kazakhstan, Armenia và Kyrgyzstan với lượng xuất khẩu trung bình đạt khoảng 4.500 tấn/năm.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy giá trị xuất khẩu các sản phẩm chăn nuôi còn khiêm tốn so với quy mô của ngành chăn nuôi. Hàng năm Việt Nam xuất khẩu hàng chục tỷ USD các sản phẩm trồng trọt, thuỷ sản, nhưng xuất khẩu các sản phẩm chăn nuôi mới chỉ dừng lại ở kim ngạch vài trăm triệu USD.
Có tiềm năng lớn về thịt lợn với nhiều nhà máy chế biến quy mô công nghiệp, nhiều sản phẩm giá trị gia tăng cao như đồ hộp, hun khói, xúc xích…, nhưng quy mô chế biến vẫn còn chiếm tỷ trọng không lớn trong tổng sản lượng lợn thịt xuất chuồng. Muốn mở rộng thị trường xuất khẩu thịt, cần phát triển mạnh hơn nữa các nhà máy chế biến, đồng thời sản phẩm chế biến phải bảo đảm các tiêu chuẩn quốc tế về chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm.
Một trong những nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng ngành chăn nuôi sản xuất nhiều nhưng giá trị xuất khẩu chưa được cao tương xứng, không thể cạnh tranh trên thị trường thế giới là do Việt Nam vẫn đang phải phụ thuộc lớn vào nguồn thức ăn chăn nuôi nhập khẩu, với chi phí ước tính cho thức ăn chăn nuôi chiếm tới 65% chi phí giá thành sản xuất. Để đẩy mạnh lượng xuất khẩu sản phẩm thịt, một trong những yêu cầu hiện nay là phải độc lập, tự chủ được nguồn nguyên liệu sản xuất thức ăn chăn nuôi trong nước, giảm phụ thuộc vào nguồn nhập khẩu. Hiện nay, Việt Nam có một diện tích lớn khoảng 800.000 ha có thể chuyển sang trồng ngô, đậu tương... để có nguyên liệu sản xuất thức ăn chăn nuôi công nghiệp. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đang phối hợp với một số doanh nghiệp triển khai xây dựng vùng nguyên liệu sản xuất thức ăn chăn nuôi tại Tây Nguyên, đồng thời phối hợp với các địa phương tại Đông Nam Bộ xây dựng các vùng chăn nuôi đạt chuẩn an toàn sinh học để có sản phẩm thịt xuất khẩu theo quy định của Tổ chức thú y thế giới.
Các doanh nghiệp cũng cần đầu tư chế biến sâu để đưa ngành chăn nuôi bước ra thế giới, đồng thời xây dựng vùng an toàn dịch bệnh, gắn với nhà máy chế biến, gắn với chuỗi để có vùng nguyên liệu xuất khẩu; tổ chức liên kết chặt chẽ giữa sản xuất, nhập khẩu và hệ thống phân phối, bán lẻ, đảm bảo hài hòa lợi ích và hiệu quả giữa các khâu.
Nhật Bản là một thị trường còn nhiều dư địa đối với xuất khẩu các sản phẩm chăn nuôi của Việt Nam, khi mà giá trị xuất khẩu ngành hàng này sang Nhật Bản vẫn còn ở mức khiêm tốn. Nhật Bản vốn nổi tiếng có tiêu chuẩn nhập khẩu cao đối với sản phẩm thực phẩm từ nước ngoài, do đó các doanh nghiệp muốn xuất khẩu thành công sang Nhật Bản cần phải nắm rõ các luật và quy định quản lý, cũng như các đặc điểm đặc thù của thị trường này.
Việc nhập khẩu sản phẩm thịt từ nước ngoài vào Nhật Bản được điều chỉnh bởi 5 đạo luật khác nhau. Những luật này đưa ra các quy định về an toàn thực phẩm, vệ sinh dịch tễ, quy tắc ghi nhãn, thú y, tiêu chuẩn về dinh dưỡng và bảo đảm chất lượng. Bộ Y tế, Lao động và Phúc lợi là cơ quan quản lý chịu trách nhiệm về an toàn thực phẩm. Bộ Nông Lâm Thủy sản là cơ quan chịu trách nhiệm về thú y, chỉ dẫn địa lý và thực thi các tiêu chuẩn nông nghiệp. Cơ quan các vấn đề người tiêu dùng theo dõi việc ghi nhãn trên sản phẩm thực phẩm nhập khẩu. Trước khi sản phẩm thực phẩm được nhập khẩu vào Nhật Bản, người nhập khẩu phải gửi Thông báo nhập khẩu tới các trạm kiểm dịch của Bộ Y tế, Lao động và Phúc lợi tại cảng nơi hàng cập bến. Cán bộ kiểm dịch có thể đòi hỏi nhà nhập khẩu cung cấp thêm các thông tin liên quan như tỷ trọng thành phần dinh dưỡng, hay sơ đồ quy trình sản xuất. Các trạm kiểm dịch sẽ cấp phép nhập khẩu nếu như hàng nhập khẩu đảm bảo tuân thủ các quy định về nhập khẩu thực phẩm.
Xu hướng tiêu dùng của người dân Nhật Bản đối với thịt và các sản phẩm chế biến từ thịt cũng chứng kiến những sự thay đổi trong thời gian qua. Người dân Nhật Bản ăn thịt nhiều hơn gần 20% mỗi người so với khoảng thời gian 20 năm trước; trong số các loại thịt được tiêu thụ phổ biến thì thịt lợn và thịt gia cầm tiếp tục được ưa chuộng hơn ở Nhật Bản so với thịt bò hay thịt cừu.
Khi các hạn chế về phòng dịch Covid-19 được dỡ bỏ hoàn toàn, người dân Nhật Bản dành nhiều thời gian hơn ở bên ngoài. Tại các nhà hàng, người Nhật ăn nhiều thịt hơn cá vì các món thịt tốn nhiều thời gian hơn để nấu ở nhà. Ngoài ra Nhật Bản đang chứng kiến sự gia tăng của: (i) Số lượng hộ gia đình độc thân, (ii) Số lượng người cao tuổi, (iii) Số phụ nữ làm việc bên ngoài gia đình. Thông thường, các nhà hàng thịt nướng và burger kiểu phương Tây rất phổ biến với những người độc thân hoặc nhân viên văn phòng thiếu thời gian.
Người tiêu dùng Nhật Bản thích mua thịt trực tiếp hơn so với những người tiêu dùng ở các nước khác. Cách thức đóng gói sản phẩm bán lẻ và đặc điểm hình ảnh của thịt, chẳng hạn như các thớ vân trên thịt bò, là yếu tố quan trọng mà người tiêu dùng Nhật Bản thường cân nhắc khi đi mua thịt.
Người dân Nhật Bản ngày càng chú trọng nhiều hơn đến vấn đề về an toàn thực phẩm. Dịch Covid-19 đã có tác động đến nhận thức và các quyết định mua hàng của người dân Nhật Bản, khi mà họ có xu hướng quan tâm hơn đến nguồn gốc các sản phẩm thực phẩm. Họ cũng sẽ ưa chuộng hơn đối với các sản phẩm được cho là có thể hỗ trợ tăng cường hệ miễn dịch. Người bán hàng cần cố gắng cung cấp đủ các thông tin liên quan đến sức khỏe để làm tăng độ tin cậy của khách hàng đối với vấn đề an toàn thực phẩm, thông qua các hình thức phổ biến thông tin trực tuyến trên website hoặc trực tiếp tại các điểm bán hàng.
Người tiêu dùng Nhật Bản cũng ngày càng nâng cao nhận thức về các vấn đề môi trường và phúc lợi động vật. Họ ưa chuộng tiêu dùng các sản phẩm thực phẩm được sản xuất ra dựa trên thực hành canh tác bền vững.
Hiểu rõ các thủ tục và quy định quản lý nhập khẩu của Nhật Bản cũng như xu hướng và tập quán tiêu dùng của người dân bản địa, từ đó nâng cao chất lượng sản phẩm của mình chính là yếu tố tiên quyết để xuất khẩu thành công sang Nhật Bản.
Vụ Thị trường châu Á – châu Phi, Bộ Công Thương
