...
Nhật Bản
THÔNG TIN CHUNG

Tình hình xuất khẩu hàng đồ gỗ của Việt Nam sang Nhật Bản

Thứ Năm, 30/11/2023

Xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ sang các thị trường lớn đều giảm trong nửa đầu năm 2023, với các nguyên nhân do: sức mua kém, đơn hàng giảm và các biện pháp phòng vệ thương mại của Mỹ và châu Âu, đứt gãy chuỗi vận tải logistics.

Theo số liệu thống kê hải quan, kim ngạch xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ của Việt Nam ra thế giới trong 6 tháng đầu năm 2023 đạt gần 6,1 tỷ USD, giảm 27,9% so với cùng kỳ năm 2022; trong đó, riêng sản phẩm gỗ xuất khẩu đạt trên 4,1 tỷ USD, giảm 31,9%.

Mỹ là thị trường xuất khẩu lớn nhất cho nhóm hàng gỗ và sản phẩm gỗ, chiếm 54% trong tổng kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này của cả nước, đạt gần 3,3 tỷ USD, giảm 32,8% so với cùng kỳ năm 2022. Xuất khẩu sang một số thị trường chính khác cũng bị suy giảm, bao gồm: Nhật Bản (812,8 triệu USD, giảm 3,7%); Trung Quốc (706,6 triệu USD, giảm 25,4%); Hàn Quốc (394,4 triệu USD, giảm 25,6%); các nước Đông Nam Á (131,1 triệu USD, giảm 13%).

Xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ sang các thị trường lớn đều giảm trong nửa đầu năm 2023, với các nguyên nhân do: sức mua kém, đơn hàng giảm và các biện pháp phòng vệ thương mại của Mỹ và châu Âu, đứt gãy chuỗi vận tải logistics. Bên cạnh đó, ở trong nước, nguồn cung gỗ nguyên liệu hiện vẫn chưa đủ và doanh nghiệp vẫn phải nhập khẩu một số loại trong nước không có. Do đó, quy trình chứng minh nguồn gốc gỗ hợp pháp để tận dụng các hiệp định thương mại tự do cũng gặp nhiều khó khăn. Đối với các doanh nghiệp xuất khẩu gỗ, do hầu hết là các doanh nghiệp nhỏ và vừa, trình độ công nghệ còn thấp, nguồn lực tài chính hạn chế nên chưa đủ để đầu tư công nghệ nâng cao chất lượng sản phẩm, nâng cao tính cạnh tranh.

Kim ngạch xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ sang thị trường Nhật Bản trong 6 tháng đầu năm 2023 đạt 812,8 triệu USD, giảm 3,8% so với cùng kỳ năm 2022. Trong cơ cấu xuất khẩu, dăm gỗ dẫn đầu về trị giá xuất khẩu, đạt 316,5 triệu USD, tăng 5,5%; gỗ viên nén đạt 191,1 triệu USD, tăng 27%. Nhật Bản hiện đang phát triển nhiều nhà máy nhiệt điện sử dụng dăm gỗ và viên nén gỗ làm chất đốt, do đó nhu cầu nhập khẩu những mặt hàng này được dự báo sẽ tiếp tục tăng trong thời gian tới.

Đồ nội thất bằng gỗ cũng nằm trong số các mặt hàng xuất khẩu chính tới thị trường Nhật Bản trong 6 tháng đầu năm 2023, tuy nhiên trị giá xuất khẩu mặt hàng này giảm mạnh, do tình hình lạm phát cao làm tăng giá nhiều loại hàng hóa thiết yếu khiến cho người tiêu dùng Nhật Bản dè dặt hơn trong mua sắm các tài sản lâu bền. Nhật Bản là thị trường rất tiềm năng đối với mặt hàng đồ nội thất bằng gỗ bởi là thị trường có sức tiêu thụ lớn, với dân số hơn 125 triệu người và thu nhập bình quân đầu người ở mức cao, khoảng 38.662 USD/người trong năm 2022. Trong ngắn hạn, do ảnh hưởng bởi lạm phát cao khiến nhu cầu tiêu thụ mặt hàng này của Nhật Bản chậm lại, khiến xuất khẩu đồ nội thất bằng gỗ của Việt Nam chịu tác động. Tuy nhiên khi kinh tế phục hồi sẽ thúc đẩy nhu cầu tiêu dùng của người Nhật Bản tăng trở lại.

Nhật Bản là một thị trường có nhiều đặc điểm đặc thù, do vậy các doanh nghiệp cần tìm hiểu và nắm bắt thông tin thị trường một cách chính xác, kỹ lưỡng để có thể xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ thành công sang Nhật Bản.

Về thị hiếu tiêu dùng, người Nhật thích mua những đồ gỗ kích thước nhỏ gọn, phù hợp với diện tích nhà ở không quá lớn ở Nhật. Do người Nhật đề cao tính tiện dụng và tối giản của các đồ nội thất và gia dụng nên những sản phẩm đồ gỗ sử dụng tại Nhật Bản thường hạn chế các chi tiết trang trí cầu kỳ hay những sản phẩm màu sắc quá bắt mắt. Ví dụ có những sản phẩm bàn trà Nhật rất đơn giản chỉ gồm mặt bàn và bộ chân có thể gập lại, tuy nhiên mỗi đường nét của sản phẩm đều được tính toán kỹ lưỡng để sản phẩm vừa đẹp, vừa an toàn và tiện dụng.

Khác với thị trường EU hay Mỹ, người Nhật Bản có thị hiếu riêng khi mua hàng đồ gỗ. Trong khi người Mỹ thích đồ gỗ làm từ nguyên liệu gỗ cứng thì người Nhật lại thích đồ gỗ làm từ các loại gỗ mềm. Tiếp đến, người Nhật chủ yếu dùng đồ gỗ cho các tiện nghi trong nhà, khác biệt so với người dân các nước châu Âu thích dùng đồ gỗ ở ngoài trời, sân vườn. Do đó, hàng đồ gỗ dùng trong nhà được tiêu thụ mạnh nhất ở Nhật Bản.

Người dân Nhật Bản cũng ưa chuộng các sản phẩm gắn bó với thiên nhiên. Họ yêu thích vẻ đẹp và màu sắc của những loại gỗ hay mây tre tự nhiên. Điều này giúp không gian sống và không gian làm việc trở nên ấm cúng, thanh lịch và gần gũi với thiên nhiên hơn. Bên cạnh đó, các sản phẩm gỗ có màu tự nhiên cũng thân thiện với sức khỏe người tiêu dùng và môi trường vì không chứa hóa chất tạo màu độc hại.

Nhật Bản nổi tiếng về các hàng rào kỹ thuật tiêu chuẩn cao đối với hầu hết các mặt hàng nông lâm thủy sản. Điều này không hoàn toàn chỉ xuất phát từ động cơ bảo hộ sản xuất trong nước mà còn do văn hóa tiêu dùng tại Nhật Bản, khi người tiêu dùng đòi hỏi khắt khe về chất lượng, độ an toàn của sản phẩm, các yếu tố về môi trường… Đây là khó khăn lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam vốn có xuất phát điểm về công nghệ cũng như trình độ quản lý sản xuất còn tương đối thấp, chưa đáp ứng được đòi hỏi cao của tiêu chuẩn Nhật Bản.

Tại Nhật Bản, tiêu chuẩn kỹ thuật được áp dụng phổ biến nhất với sản phẩm gỗ là Tiêu chuẩn JAS và Tiêu chuẩn JIS về lượng formaldehyde phát xạ gắn liền với hội chứng nhà bệnh (sick building syndrome – biểu hiện cấp tính của ô nhiễm không khí nội thất, xuất hiện trong các văn phòng hay khu nhà ở đóng kín, hoặc không được thông khí tốt). Các tiêu chuẩn này bắt buộc áp dụng với các sản phẩm gỗ dán, ván dăm bào, ván xây dựng, ván phủ mặt, ván sàn, mặt cầu thang… Mỗi loại sản phẩm đòi hỏi phải có giấy chứng nhận riêng phù hợp với các tiêu chuẩn tương ứng.

Các doanh nghiệp chế biến gỗ xuất khẩu của Việt Nam cần phải đạt được các chứng nhận về nguồn gốc và chất lượng sản phẩm gỗ (từ nguyên liệu đến thành phẩm), đặc biệt là trong điều kiện mối quan tâm đến các vấn đề ô nhiễm môi trường ngày càng cao. Ngoài ra các doanh nghiệp chế biến gỗ xuất khẩu cũng cần cung cấp thông tin về các chất liệu hóa chất xử lý gỗ để tăng độ tin cậy và an tâm của khách hàng khi sử dụng.

Hệ thống phân phối hàng hóa tại Nhật Bản rất phức tạp với nhiều cấp khác nhau, đòi hỏi các doanh nghiệp muốn xuất khẩu vào thị trường này phải có quan hệ tốt với các đầu mối nhập khẩu trung gian thông qua các Hiệp hội ngành hàng. Nhìn chung việc tiếp cận hệ thống kênh phân phối hàng hóa trên thị trường Nhật Bản của doanh nghiệp Việt Nam còn yếu. Doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu xuất khẩu cho các công ty thương mại và các nhà bán buôn Nhật Bản, trong khi việc tiếp cận các kênh khác như hệ thống cửa hàng bán lẻ, các nhà chế biến công nghiệp còn rất hạn chế, nhất là chưa có hệ thống đại diện hoặc chi nhánh công ty Việt Nam tại thị trường Nhật Bản. Trong khi các đối thủ cạnh tranh về xuất khẩu gỗ sang Nhật Bản như Indonesia, Malaysia, Thái Lan, Slovakia... thời gian gần đây đã có những bước tiến quan trọng trong việc chiếm lĩnh thị phần trên thị trường đồ gỗ Nhật Bản, thì các doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận và xây dựng kênh phân phối vững chắc tại thị trường Nhật Bản.

Các doanh nghiệp gỗ Việt Nam không nhất thiết chỉ xuất khẩu đồ gỗ sang Nhật, mà còn có thể cân nhắc hợp tác với các nhà sản xuất/nhà phân phối đồ gỗ nội địa để tận dụng kinh nghiệm và thị trường của chính họ.

Vụ Thị trường châu Á – châu Phi, Bộ Công Thương


Bài viết liên quan