...
Liên minh châu Âu
BIỆN PHÁP PHI THUẾ QUAN

Đánh giá tác động của dự luật chuỗi cung ứng chống phá rừng của EU

Thứ Ba, 09/05/2023

Ngày 19/4/2023, Nghị viện châu Âu đã chính thức thông qua đạo luật về cấm đưa vào lưu thông và xuất khẩu các sản phẩm liên quan đến phá rừng và suy thoái rừng (Regulation on deforestation-free products) – Quy định (EU) số 2023/1115, thay thế Quy định (EU) số 995/2000. Các quy định của luật này bắt đầu có hiệu lực từ ngày 29/6/2023, là một bước quan trọng trong nỗ lực thực hiện Kế hoạch Xanh của EU về giảm khí thải, chống biến đổi khí hậu và phát triển bền vững.

Ngày 19/4/2023, Nghị viện châu Âu đã chính thức thông qua đạo luật về cấm đưa vào lưu thông và xuất khẩu các sản phẩm liên quan đến phá rừng và suy thoái rừng (Regulation on deforestation-free products) – Quy định (EU) số 2023/1115, thay thế Quy định (EU) số 995/2000. Các quy định của luật này bắt đầu có hiệu lực từ ngày 29/6/2023, là một bước quan trọng trong nỗ lực thực hiện Kế hoạch Xanh của EU về giảm khí thải, chống biến đổi khí hậu và phát triển bền vững.

          Quy định áp dụng với 07 nhóm hàng hóa chính gồm: gia súc, ca cao, cà phê, dầu cọ, cao su, đậu nành và gỗ; trong đó, bao gồm cả sản phẩm phái sinh từ các nhóm hàng hóa này như thịt bò & thịt chế biến, da thuộc; sản phẩm từ ca cao như sô cô la, bột ca cao; sản phẩm làm từ dầu cọ, cao su, đậu nành; sản phẩm làm từ gỗ như đồ nội thất, giấy và sản phẩm giấy in, v.v. (Danh mục cụ thể theo HS tại Phụ lục I của Quy định). Các mặt hàng trong phạm vi điều chỉnh cũng sẽ được xem xét và cập nhật thường xuyên.

          Quy định mới nhằm mục tiêu: (1) tránh để các sản phẩm mà người châu Âu mua, sử dụng và tiêu thụ góp phần gây phá rừng và suy thoái rừng ở EU và toàn cầu; (2) giảm lượng khí thải carbon do tiêu thụ và sản xuất các mặt hàng có liên quan của EU ít nhất 32 triệu tấn mỗi năm; (3) giải quyết nạn phá rừng do mở rộng nông nghiệp để sản xuất hàng hóa, cũng như suy thoái rừng.

 Quy định mới đặt ra các quy tắc thẩm định bắt buộc đối với các doanh nghiệp muốn đưa các sản phẩm trên vào thị trường EU hoặc xuất khẩu chúng. Theo đó, các nhà khai thác và thương nhân sẽ phải tuyên bố thẩm định, chứng minh rằng các sản phẩm không liên quan đến phá rừng (được sản xuất trên vùng đất không phá rừng sau ngày 31/12/2020) và hợp pháp (tuân thủ các luật hiện hành có liên quan tại quốc gia sản xuất và quyền của người dân bản địa được tôn trọng). Mẫu giải trình được quy định cụ thể tại Phụ lục II của Quy định.

Các thông tin liên quan đến giải trình như: tên doanh nghiệp, địa chỉ, các nhà cung cấp, vị trí địa lý các lô thửa đất sản xuất nông nghiệp, mã HS các mặt hàng và sản phẩm, tên khoa học nơi các hàng hóa mà chúng đã được trồng để các mặt hàng này có thể được kiểm tra tuân thủ... Dữ liệu này sau đó có thể được kiểm tra bởi các cơ quan có thẩm quyền ở các quốc gia thành viên EU. Các cơ quan có thẩm quyền của EU sẽ có quyền truy cập vào thông tin liên quan do các công ty cung cấp như tọa độ định vị địa lý. Họ sẽ tiến hành kiểm tra bằng các công cụ giám sát vệ tinh và phân tích DNA để xác minh nguồn gốc của sản phẩm.

Sau khi quy định có hiệu lực, các nhà khai thác và thương nhân sẽ có 18 tháng để thực hiện các quy tắc mới; với các doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ được hưởng thời gian thích ứng dài hơn. Các doanh nghiệp lớn sẽ phải thực hiện nghĩa vụ giải trình tuân thủ nghiêm ngặt hơn theo quy định; trong khi các nhà xuất khẩu, thương nhân là các doanh nghiệp vừa và nhỏ chỉ được yêu cầu thu thập hồ sơ của các nhà cung cấp và khách hàng của họ, giữ thông tin đó trong ít nhất 05 năm và cung cấp thông tin cho các cơ quan có thẩm quyền theo yêu cầu và không bắt buộc phải đáp ứng các nghĩa vụ.

Các biện pháp trừng phạt đối với việc không tuân thủ phải tương xứng và có tính răn đe. Mức phạt tối đa đối với một công ty vi phạm luật được ấn định ít nhất là 4% tổng doanh thu hàng năm của công ty tại EU. Các quốc gia thành viên EU có trách nhiệm thẩm định hàng hóa xuất nhập khẩu vào quốc gia mình, thống nhất quy định hình phạt theo mức độ vi phạm như phạt tiền, tịch thu, loại trừ tạm thời hay tiêu hủy.

EU sẽ kiểm soát dựa trên mức độ rủi ro: Trong vòng 18 tháng sau khi luật có hiệu lực, Ủy ban châu Âu sẽ xây dựng hệ thống đánh giá để phân loại các quốc gia và khu vực có rủi ro thấp, tiêu chuẩn hoặc cao. Việc phân loại này sẽ xác định số lần kiểm tra mà các cơ quan có thẩm quyền của quốc gia thành viên sẽ phải thực hiện, cụ thể là: 9% đối với các quốc gia có rủi ro cao, 3% đối với rủi ro tiêu chuẩn và 1% đối với rủi ro thấp. Các sản phẩm từ các quốc gia có rủi ro thấp sẽ được áp dụng thủ tục thẩm định đơn giản hóa, tỷ lệ kiểm tra thấp hơn.

          Việc EU luật hóa các hoạt động thương mại về sản phẩm không phá rừng một mặt sẽ thúc đẩy thiết lập các quy chuẩn thương mại xanh mới, lan tỏa trách nhiệm chung chống biến đổi khí hậu cho các quốc gia cung ứng, nhập khẩu các loại hàng hóa/sản phẩm liên quan đến rừng, góp phần chuyển đổi chuỗi cung ứng xanh, bền vững không chỉ tại EU. Mặt khác, quy định này cũng sẽ tạo ra hàng rào thương mại cao hơn đối với việc tiếp cận thị trường khi các mặt hàng nông lâm sản sẽ phải tuân thủ các thủ tục thông quan phức tạp hơn và quy trình thẩm định toàn diện. Các công ty đưa hàng hóa vào thị trường EU sẽ phải cung cấp giải trình, báo cáo thẩm định và thông tin có thể kiểm chứng để chứng minh sản phẩm không được sản xuất trên vùng đất bị phá rừng và tuân thủ pháp luật tại quốc gia xuất xứ. Chứng chỉ Deforestation Free là bắt buộc đối với các sản phẩm được sản xuất trên đất không liên quan đến phá rừng và suy thoái rừng từ sau 31/12/2020.

EU hiện là thị trường xuất khẩu nông lâm thủy sản hàng đầu của Việt Nam. Theo thống kê của Tổng cục Hải quan, xuất khẩu nhóm hàng nông, lâm, thủy sản của Việt Nam sang EU trong giai đoạn 2017 - 2022 đạt trung bình 4 tỷ USD/năm; chiếm tỉ trọng 9,7% – 13% trong tổng kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này của cả nước. Do vậy, việc triển khai quy định mới sẽ tác động đáng kể đến các doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu, trước mắt là đối với mặt hàng chủ lực như cà phê[1], gỗ & sản phẩm gỗ, cũng như mặt hàng tiềm năng như cao su[2] và về lâu dài sẽ có thể mở rộng thêm các sản phẩm nông sản khác bị kiểm soát.

Tuy nhiên phải nhìn nhận rằng, việc gia tăng các tiêu chuẩn xanh, phát triển bền vững là xu hướng tất yếu, không thể đảo ngược trên toàn cầu, không riêng tại thị trường EU. Việc bắt kịp xu thế sẽ tạo ra cơ hội phát triển nhanh chóng, giúp nâng cao sức cạnh tranh và mở rộng thị phần. Các doanh nghiệp xuất khẩu sang EU cần lưu ý bám sát và tuân thủ các quy định, điều kiện tiêu chuẩn của thị trường, đáp ứng các biện pháp truy xuất nguồn gốc, đảm bảo rằng nguồn cung ứng các mặt hàng hoặc nguyên liệu không gây phá rừng hoặc suy thoái rừng, đồng thời tuân thủ các quy định pháp luật hiện hành bao gồm cả quyền con người và bảo vệ người bản địa. Đồng thời khuyến khích tập trung phát triển các vùng nguyên liệu chuyên canh bền vững, quy mô tập trung theo chuỗi cung ứng nông nghiệp xanh, trên cơ sở ứng dụng khoa học công nghệ cao; quản lý tốt các nguồn tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường sinh thái và ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu.

 


[1] EU là thị trường xuất khẩu cà phê lớn nhất của Việt Nam, chiếm tỷ trọng 36,8% trong tổng kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này của cả nước. Năm 2022, xuất khẩu cà phê sang EU đạt trị giá 1,491 tỷ USD, tăng 45,4% so với năm 2021.

[2] EU là thị trường xuất khẩu cao su thứ 3 của Việt Nam (sau Ấn Độ và Trung Quốc), chiếm tỷ trọng 3,7% trong tổng kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này của cả nước; đạt trị giá 112 triệu USD năm 2022.


Bài viết liên quan