Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, xuất khẩu cà phê của Việt Nam trong tháng 5/2023 sang thị trường RCEP đạt 37,7 nghìn tấn với trị giá gần 110,73 triệu USD, tăng 4,03% về lượng và tăng 5,52% về trị giá so với tháng 4/2023. So với tháng 5/2022, xuất khẩu cà phê của Việt Nam sang thị trường RCEP tăng 15,1% về lượng và tăng 23,56% về trị giá. Tính chung 5 tháng đầu năm 2023, xuất khẩu cà phê của Việt Nam sang thị trường này đạt 155,59 nghìn tấn, tương đương 444,01 triệu USD, tăng 2,26% về lượng và tăng 7,15% về trị giá so với 5 tháng đầu năm 2022.
Xét trong tổng hàng hóa của Việt Nam xuất khẩu sang thị trường RCEP: Trong tháng 5/2023, cà phê là mặt hàng xuất khẩu có trị giá lớn thứ 24 của Việt Nam sang thị trường RCEP, chiếm 0,97% trong tổng trị giá hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường này (tháng 5/2022 có trị giá lớn thứ 27, chiếm 0,76%). Tính chung 5 tháng đầu năm 2023, cà phê có trị giá xuất khẩu lớn thứ 27, chiếm 0,82% trong tổng trị giá (5 tháng đầu năm 2022 có trị giá lớn thứ 29, chiếm 0,7% trong tổng trị giá).
Biểu đồ 1: Lượng xuất khẩu cà phê của Việt Nam sang các thị trường thuộc hiệp định RCEP tới tháng 5/2023
ĐVT: nghìn tấn
Nguồn: Tính toán từ số liệu của Tổng cục Hải quan
Trong tháng 5/2023, khối lượng cà phê xuất khẩu của Việt Nam sang 5/13 thị trường RCEP tăng so với tháng 4/2023, trong đó, xuất khẩu sang 5 thị trường Australia, Malaysia, Myanmar, Philippines, Thái Lan tăng nhưng xuất khẩu sang 8 thị trường Campuchia, Hàn Quốc, Indonesia, Lào, New Zealand, Nhật Bản, Singapore, Trung Quốc (Đại lục) lại giảm.
Tính chung 5 tháng đầu năm 2023, khối lượng cà phế xuất khẩu của Việt Nam sang 7/13 thị trường RCEP tăng so với 5 tháng đầu năm 2023.
Trong khối thị trường RCEP, cà phê của Việt Nam xuất khẩu nhiều nhất sang thị trường Nhật Bản trong 5 tháng đầu năm 2023, chiếm 5,62% trong tổng lượng và chiếm 6,39% trong tổng kim ngạch xuất khẩu cà phê của cả nước, đạt 48,68 nghìn tấn, tương đương gần 128,59 triệu USD, giảm 7,36% về lượng và giảm 2,99% về kim ngạch so với 5 tháng đầu năm 2022; riêng tháng 5/2023 xuất khẩu đạt 10.885 tấn, tương đương gần 30,26 triệu USD, giảm 1,43% về lượng nhưng tăng 4,7% kim ngạch so với tháng 4/2023.
Xuất khẩu cà phê sang thị trường Indonesia đứng thứ 2, tăng 224,39% về lượng và tăng 185,53% về kim ngạch so với 5 tháng đầu năm 2022, đạt 26,6 nghìn tấn, tương đương 76,22 triệu USD, chiếm 3,07% trong tổng lượng và chiếm 3,79% trong tổng kim ngạch xuất khẩu cà phê của cả nước.
Xuất khẩu cà phê sang thị trường Hàn Quốc cũng tăng 9,94% về lượng và tăng 0,33% kim ngạch so với 5 tháng đầu năm 2022, đạt 18,61 nghìn tấn, tương đương gần 43,14 triệu USD.
Biểu đồ 2: Cơ cấu cà phê xuất khẩu sang các thị trường thuộc hiệp định RCEP tháng 5 và 5 tháng đầu năm 2023
(ĐVT % theo trị giá)
|
Tháng 5 năm 2023 |
5 tháng đầu năm 2023 |
Nguồn: Tính toán từ số liệu của Tổng cục Hải quan
Bảng 1: Trị giá xuất khẩu cà phê sang các thị trường thuộc RCEP trong tháng 5 và 5 tháng đầu năm 2023
|
Thị trường |
Tháng 5/2023 |
5 tháng đầu năm 2023 |
|||
|---|---|---|---|---|---|
|
Trị giá (triệu USD) |
So với tháng 4/2023 (%) |
So với tháng 5/2022 (%) |
Trị giá (triệu USD) |
So với 5 tháng đầu năm 2022 (%) |
|
|
TỔNG RCEP |
110,73 |
5,52 |
23,56 |
444,01 |
7,15 |
|
Nhật Bản |
30,26 |
4,70 |
35,65 |
128,59 |
-2,99 |
|
Indonesia |
17,54 |
-9,68 |
98,99 |
76,22 |
185,53 |
|
Philippines |
12,28 |
15,28 |
-16,42 |
46,37 |
-36,08 |
|
Trung Quốc (đại lục) |
14,50 |
-3,51 |
31,03 |
54,93 |
-0,41 |
|
Thái Lan |
12,02 |
45,24 |
9,15 |
36,15 |
93,16 |
|
Hàn Quốc |
9,09 |
-6,89 |
6,51 |
43,14 |
0,33 |
|
Malaysia |
8,51 |
23,14 |
32,30 |
31,63 |
-8,86 |
|
Australia |
3,26 |
24,44 |
-36,05 |
13,35 |
-42,08 |
|
Myanmar |
2,06 |
14,22 |
253,51 |
6,97 |
139,87 |
|
New Zealand |
0,48 |
-13,38 |
141,11 |
2,21 |
111,37 |
|
Singapore |
0,46 |
-26,39 |
-4,86 |
2,55 |
49,50 |
|
Campuchia |
0,23 |
-30,76 |
-31,46 |
1,68 |
-18,49 |
|
Lào |
0,03 |
-26,59 |
-38,88 |
0,23 |
-8,92 |
Nguồn: Tính toán từ số liệu của Tổng cục Hải quan
+ Giá cà phê xuất khẩu của Việt Nam trong tháng 5/2023 sang thị trường RCEP đạt 2.937 USD/tấn, tăng 1,43% so với tháng 4/2023 và tăng 7,34% so với tháng 5/2022. Tính chung 5 tháng đầu năm 2023, giá cà phê xuất khẩu trung bình của Việt Nam sang thị trường này đạt 2.854 USD/tấn, tăng 4,78% so với 5 tháng đầu năm 2022.
Chi tiết giá sang một số thị trường:
+ Giá cà phê xuất khẩu của Việt Nam trong tháng 5/2023 sang Nhật Bản đạt 2779,97 USD/tấn, tăng 6,22% so với tháng 4/2023 nhưng giảm 6,76% so với tháng 5/2022. Tính chung 5 tháng đầu năm 2023, giá cà phê xuất khẩu trung bình của Việt Nam sang thị trường này đạt 2641,37 USD/tấn, tăng 4,72% so với 5 tháng đầu năm 2022.
+ Giá cà phê xuất khẩu của Việt Nam trong tháng 5/2023 sang Indonesia đạt 2.796 USD/tấn, giảm 4,54% so với tháng 4/2023 và giảm 21,31% so với tháng 5/2022. Tính chung 5 tháng đầu năm 2023, giá cà phê xuất khẩu trung bình của Việt Nam sang thị trường này đạt 2.866 USD/tấn, giảm 11,98% so với 5 tháng đầu năm 2022.
+ Giá cà phê xuất khẩu của Việt Nam trong tháng 5/2023 sang Trung Quốc (Đại lục) đạt 3.517 USD/tấn, tăng 19,64% so với tháng 4/2023 và tăng 31,92% so với tháng 5/2022. Tính chung 5 tháng đầu năm 2023, giá cà phê xuất khẩu trung bình của Việt Nam sang thị trường này đạt 3.118 USD/tấn, tăng 5,12% so với 5 tháng đầu năm 2022.
+ Giá cà phê xuất khẩu của Việt Nam trong tháng 5/2023 sang Philippines đạt 2.923 USD/tấn, giảm 8,43% so với tháng 4/2023 nhưng tăng 9,17% so với tháng 5/2022. Tính chung 5 tháng đầu năm 2023, giá cà phê xuất khẩu trung bình của Việt Nam sang thị trường này đạt 3.046 USD/tấn, tăng 3,21% so với 5 tháng đầu năm 2022.
Biểu đồ 3: Giá xuất khẩu cà phê trung bình tháng của Việt Nam sang một số thị trường thuộc RCEP tới tháng 5/2023
ĐVT: USD/tấn
Nguồn: Tính toán từ số liệu của Tổng cục Hải quan
Bảng 3: Giá xuất khẩu trung bình cà phê của Việt Nam sang các thị trường RCEP tháng 5/2023 và 5 tháng đầu năm 2023
|
Thị trường |
Tháng 5/2023 |
5 tháng đầu năm 2023 |
|||
|---|---|---|---|---|---|
|
Giá trung bình tháng 5/2023 (USD/tấn) |
So với T4/2023 (%) |
So với T5/2022 (%) |
Giá trung bình 5 tháng đầu năm 2023 (USD/tấn) |
So với 5T/2022 (%) |
|
|
Tổng RCEP |
2.937 |
1,43 |
7,34 |
2.854 |
4,78 |
|
Nhật Bản |
2.780 |
6,22 |
-6,76 |
2.641 |
4,72 |
|
Indonesia |
2.796 |
-4,54 |
-21,31 |
2.866 |
-11,98 |
|
Philippines |
2.923 |
-8,43 |
9,17 |
3.046 |
3,21 |
|
Trung Quốc (đại lục) |
3.517 |
19,64 |
31,92 |
3.118 |
5,12 |
|
Thái Lan |
3.078 |
-13,78 |
15,89 |
3.727 |
15,07 |
|
Hàn Quốc |
2.482 |
-1,10 |
13,95 |
2.318 |
-8,73 |
|
Malaysia |
3.033 |
-5,17 |
12,02 |
3.011 |
12,24 |
|
Australia |
2.873 |
4,81 |
29,76 |
2.573 |
16,19 |
|
Myanmar |
5.154 |
-9,20 |
31,68 |
4.782 |
19,19 |
|
New Zealand |
3.259 |
39,07 |
-22,91 |
2.510 |
14,79 |
|
Singapore |
4.864 |
8,48 |
23,18 |
4.687 |
8,82 |
|
Campuchia |
3.607 |
-1,55 |
-11,12 |
3.067 |
-20,28 |
|
Lào |
5.777 |
10,11 |
1,87 |
5.622 |
6,63 |
Nguồn: Tính toán từ số liệu của Tổng cục Hải quan
Giá cà phê Robusta và Arabica biến động không đồng nhất trong tháng 5/2023. Trong khi giá cà phê Robusta tăng, giá cà phê Arabica lại giảm. Nguyên nhân của sự biến động này có liên quan đến dự báo về nguồn cung và nhu cầu. Sản lượng cà phê Robusta bị giảm trong khi nguồn cung của cà phê Arabica tăng lên. Xu hướng này được dự báo sẽ tiếp tục trong tương lai khi nhu cầu sử dụng cà phê Robusta tăng lên, đặc biệt trong bối cảnh lạm phát. Nhu cầu cà phê Robusta trên thế giới vẫn duy trì ở mức cao, đáp ứng nhu cầu của ngành công nghiệp sản xuất cà phê hòa tan.
Giá cà phê tăng liên tục là do cung không đủ cầu. Dự báo cho thấy xuất khẩu cà phê vẫn có triển vọng tích cực khi nhu cầu tăng lên và nguồn hàng được cải thiện. Tuy nhiên, dự báo sản lượng cà phê năm nay giảm đến 10%-15% do thời tiết không thuận lợi. Điều này có thể gây áp lực lên nông dân và các doanh nghiệp xuất khẩu cà phê.
Tình trạng cà phê dự trữ trong dân và các đại lý cũng là một vấn đề đáng lo ngại, hiện tại cà phê gần như đã cạn kiệt trong dân và các đại lý. Phần lớn cà phê được giữ trong kho thuộc sở hữu của các doanh nghiệp nước ngoài có tiềm lực tài chính mạnh. Điều này tạo ra sự chênh lệch rõ rệt trong việc hưởng lợi từ đợt tăng giá kỷ lục của cà phê. Các doanh nghiệp nước ngoài với nguồn vốn mạnh được hưởng lợi chính từ việc tăng giá cà phê, trong khi các doanh nghiệp và nhà rang xay trong nước đang đối mặt với những khó khăn vì không mua được nguyên liệu.
Mặc dù có sự biến động về giá và nguồn cung, xuất khẩu cà phê vẫn có triển vọng tích cực. Tuy nhiên, tăng giá cà phê không mang lại lợi ích cho tất cả các doanh nghiệp xuất khẩu và các nhà sản xuất. Đồng thời, cần đảm bảo việc trồng cà phê không gây ra tác động tiêu cực đến môi trường và không vi phạm các quy định quốc tế để bảo vệ thị trường xuất khẩu cà phê của Việt Nam trong tương lai.
