Tin tức

So sánh cam kết EVFTA với một số FTA

Thứ Tư, 10/05/2023

Bài viết sẽ so sánh các khía cạnh cơ bản của Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu và một số FTA lớn của Việt Nam như Hiệp định CPTPP, Hiệp định RCEP, các Hiệp định trong nội khối ASEAN cũng như cam kết với Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) để thấy được những đặc điểm giống và khác nhau nổi bật của EVFTA với các khuôn khổ này.

  1. Về phạm vi điều chỉnh

Hiệp định EVFTA, UKVFTA, CPTPP là các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới đầu tiên của Việt Nam. Các Hiệp định này đều có phạm vi bao phủ rộng, từ những vấn đề thương mại truyền thống cho tới những vấn đề mới mà Việt Nam tham gia lần đầu tiên như mua sắm chính phủ, phát triển bền vững. Độ bao phủ này rộng hơn nhiều FTA truyền thống của Việt Nam.

  1. Về mức độ cam kết trong lĩnh vực hàng hóa

Đặc điểm quan trọng nhất khi so sánh mức độ cam kết trong lĩnh vực thương mại hàng hóa là mức độ cắt giảm và lộ trình cắt giảm thuế nhập khẩu. Cụ thể:

- Đối với Hiệp định EVFTA: Việt Nam cam kết xóa bỏ thuế quan với 48,5% số dòng thuế ngay tại thời điểm Hiệp định có hiệu lực. Sau 10 năm Việt Nam cam kết xóa bỏ thuế quan với 98,3% số dòng thuế.

- Đối với Hiệp định CPTPP: Việt Nam cam kết xóa bỏ thuế nhập khẩu đối với 66% số dòng thuế ngay tại thời điểm Hiệp định có hiệu lực. Vào năm thứ 11, 97,8% số dòng thuế có thuế suất 0%. Lộ trình cắt giảm tối đa là 16 năm hoặc áp dụng hạn ngạch thuế quan.

- Đối với Hiệp định RCEP: Việt Nam và các nước đối tác sẽ xóa bỏ thuế quan đối với ít nhất 64% số dòng thuế ngay khi Hiệp định có hiệu lực. Sau lộ trình cắt giảm thuế khoảng 20 năm, Việt Nam chào cho các nước ASEAN 90,3%, cho Ốt- xtrây-lia và Niu Di-lân là 89,6%, cho Nhật Bản và Hàn Quốc là 86,7%, cho Trung Quốc là 85,6%.

- Đối với Hiệp định ATIGA của ASEAN: Tại thời điểm năm 2021, 96,08% số dòng thuế của Việt Nam đã về 0%.

Như vậy, xét về tỷ lệ cắt giảm thuế nhập khẩu ngay tại thời điểm có hiệu lực của Hiệp định EVFTA thấp hơn RCEP và CTPP. Nhưng vào cuối lộ trình tỷ lệ cắt giảm của Việt Nam cao hơn trong CPTPP và RCEP và ATIGA. Lộ trình cắt giảm trong EVFTA cũng tương đương CPTPP và ngắn hơn RCEP.

Ở chiều ngược lại, mức độ cắt giảm thuế nhập khẩu của các nước đối tác cho Việt Nam trong EVFTA cũng có một số khác biệt với các FTA khác. Theo đó, mức độ cắt giảm thuế của EU (99,2%) dành cho Việt Nam nhìn chung cao hơn tỷ lệ của nhiều nước trong RCEP (85,9% đến 100%) và tương đương với mức các nước CPTPP (90%-100%).

  1. Về mở cửa thị trường trong lĩnh vực dịch vụ-đầu tư

Là một FTA thế hệ mới, Hiệp định EVFTA có mức độ mở cửa cao hơn trong WTO đối với các ngành như dịch vụ viễn thông, dịch vụ tài chính, dịch vụ phân phối, dịch vụ vận tải….Đây cũng là những lĩnh vực mà Hiệp định CPTPP có cam kết cải thiện, tuy nhiên trong một số phân ngành, mức độ cam kết trong EVFTA thậm chí cao hơn trong CPTPP, đối với các lĩnh vực như dịch vụ tài chính ngân hàng, dịch vụ vận tải, dịch vụ phân phối rượu, một số dịch vụ kinh doanh như lau dọn tòa nhà, dịch vụ hội trợ triển lãm v.v..

Tuy nhiên, CPTPP lại mở hơn EVFTA ở một số dịch vụ như dịch vụ quảng cáo, dịch vụ bất động sản v.v..

Đối với Hiệp định RCEP, mức độ mở cửa thị trường của Việt Nam nhìn chung tương đương với mức mở cửa trong các FTA ASEAN+1, do đó về cơ bản là tương tự như mức cam kết trong WTO. Trong khuôn khổ ASEAN nội khối về lĩnh vực dịch vụ (Hiệp định AFAS), Việt Nam đang thực thi Gói cam kết thứ 9 của AFAS, gói cam kết này có một số cam kết cải thiện hơn so với WTO, như dịch vụ bất động sản, dịch vụ nghiên cứu và phát triển, dịch vụ y tế, viễn thông, du lịch và vận tải. Các cam kết này cơ bản đã được đưa vào EVFTA.

  1. Về mức độ cam kết trong một số lĩnh vực khác

Đối với một số lĩnh vực khác như mua sắm chính phủ, sở hữu trí tuệ Hiệp định EVFTA cũng có một số điểm tương đồng và khác biệt với Hiệp định CPTPP, tuy nhiên với các FTA truyền thống, mức độ cam kết trong EVFTA mang tính tiêu chuẩn cao hơn các FTA này. Đặc biệt, Hiệp định EVFTA là Hiệp định đầu tiên đưa một Chương cam kết riêng về phát triển bền vững điều chỉnh về lao động, môi trường. Tại CPTPP, các nước cũng đưa ra cam kết đối với nội dung lao động, môi trường tại các chương riêng. Các FTA truyền thống không điều chỉnh lĩnh vực mua sắm của chính phủ, phát triển bền vững và cam kết mang mức WTO đối với lĩnh vực sở hữu trí tuệ.

- Về mua sắm của chính phủ: Trong số các FTA Việt Nam đang thực thi chỉ có CPTPP, EVFTA và cả UKVFTA là các FTA thế hệ mới mà Việt Nam cam kết mở cửa thị trường đối với lĩnh vực mua sắm công. Tuy nhiên khác nhau về diện cam kết cũng như ngưỡng mở cửa. Ví dụ, EVFTA mở hơn CPTPP 02 địa phương là thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, một số Tổng công ty và Tập đoàn, một số đại học, viện thuộc trung ương. Sau lộ trình 15 năm, ngưỡng mở cửa thị trường trong CPTPP cao hơn EVFTA, gói thầu dược phẩm ở hai Hiệp định này thì tương đối giống nhau.

- Về sở hữu trí tuệ: Hiệp định CPTPP và EVFTA đều có mức bảo hộ cao đối với lĩnh vực sở hữu trí tuệ trên cơ sở Hiệp định TRIPS của WTO đối với các khía cạnh như sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, chỉ dẫn địa lý, biện pháp thực thi hình sự. Ngược lại, mức độ cam kết của các FTA trong khuôn khổ ASEAN hay ASEAN+ hay các FTA song phương giữa Việt Nam và một số đối tác đối với lĩnh vực sở hữu trí tuệ tương đối đơn giản và cơ bản, chủ yếu dẫn chiếu đến Hiệp định TRIPS hoặc thậm chí không quy định về nội dung này.

Đối với EVFTA và CPTPP, hai Hiệp định có một số khác biệt về ở các khía cạnh như sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, chỉ dẫn địa lý và biện pháp thực thi xử lý hình sự. Ví dụ, EVFTA yêu cầu cơ chế đền bù cho sáng chế dược phẩm vì chậm trễ cấp phép lưu hành trong khi CPTPP không yêu cầu, EVFTA bảo hộ về kiểu dáng công nghiệp dài hơn CPTPP 5 năm, EVFTA bảo hộ ở mức cao như đối với rượu vang và rượu mạng cho danh sách chỉ dẫn địa lý của cả EU và Việt Nam trong khi CPTPP không bảo hộ danh sách riêng về chỉ dẫn địa lý. EVFTA không yêu cầu chế tài hình sự riêng trong khi CPTPP yêu cầu khá khắt khe.

  1. Về phát triển bền vững

- Về lao động: Hiệp định EVFTA và CPTPP đều nhắc lại các tiêu chuẩn về lao động của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO). Tuy nhiên, EVFTA không có cơ chế trừng phạt  CPTPP.

- Về môi trường: Cả EVFTA và CPTPP đều khẳng định cam kết thực hiện các hiệp định đa phương về môi trường mà mình tham gia. Tuy nhiên EVFTA không áp dụng cơ chế giải quyết tranh chấp liên quan đến môi trường như CPTPP.

Ngoài ra, trong EVFTA các bên phải thành lập cơ chế Nhóm tư vấn trong nước (DAG) để tham vấn đề các vấn đề phát triển bền vững, trong khi CPTPP không có yêu cầu này.

Nguồn: Vụ CSTMĐB


Bài viết liên quan