EU ban hành Chính sách nông nghiệp chung (CAP 2023-2027) có hiệu lực từ ngày 01/01/2023 nhằm thúc đẩy phát triển nông nghiệp bền vững, nâng cao cạnh tranh, hỗ trợ sinh kế cho người nông dân, cung cấp thực phẩm an toàn và bền vững, mang lại nhiều lợi ích hơn cho môi trường và khí hậu.
CAP 2023-2027 bao gồm10 mục tiêu chính tập trung vào vấn đề xã hội, môi trường và kinh tế, là cơ sở để các quốc gia thành viên xây dựng và ban hành chiến lược về chính sách nông nghiệp riêng:
(1) tăng khả năng phục hồi ngành nông nghiệp toàn khối EU nhằm tăng cường an ninh lương thực, đảm bảo đa dạng sinh học, nâng cao tính bền vững trong sản xuất nông nghiệp;
(2) nâng cao định hướng thị trường, tăng khả năng cạnh tranh, tập trung vào đổi mới công nghệ & số hóa ngành nông nghiệp;
(3) nâng cao vị thế của nông dân trong chuỗi giá trị, tăng tính minh bạch của thị trường, đảm bảo cơ chế hiệu quả chống lại các bất công trong thương mại;
(4) góp phần giảm thiểu và thích ứng với biến đổi khí hậu, bao gồm giảm phát thải khí nhà kính, tăng cường hấp thụ các-bon, thúc đẩy năng lượng bền vững;
(5) quản lý tài nguyên hiệu quả, đặc biệt là tài nguyên đất, giảm phụ thuộc vào hóa chất;
(6) ngăn chặn và đảo ngược quá trình mất đa dạng sinh học, tăng cường dịch vụ hệ sinh thái và bảo tồn sinh cảnh;
(7) phát triển doanh nghiệp bền vững khu vực nông thôn;
(8) thúc đẩy tăng trưởng việc làm;
(9) bảo đảm chất lượng thực phẩm và sức khỏe người dân;
(10) hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn.
CAP 2023-2027 là chính sách tiêu biểu trong việc thực hiện và giải quyết các vấn đề về nông nghiệp nông thôn khu vực châu Âu thông qua các biện pháp can thiệp về kinh tế, tài chính, trợ giá, thuế… nhằm phát triển ngành nông nghiệp bền vững, cạnh tranh, hỗ trợ sinh kế nông dân, cung cấp thực phẩm lành mạnh và bền vững. Đồng thời việc nâng cao các tiêu chuẩn về môi trường, khí hậu là bước tiến quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển bền vững, mang lại nhiều lợi ích về mặt môi trường/khí hậu. Việc thông qua CAP thể hiện nỗ lực chung của EU trong việc đưa vấn đề môi trường, khí hậu vào sản xuất nông nghiệp, thực hiện các cam kết đối với Thỏa thuận Paris về biến đổi khí hậu.
Việc Chính sách CAP mới được thông qua sẽ đòi hỏi các tiêu chuẩn cao hơn, tạo ra hàng rào kỹ thuật đối với việc mở rộng mặt hàng, gia tăng thị phần xuất khẩu hàng hóa nông sản của các nước đang phát triển vào EU.
Chính sách CAP mới cũng thể hiện quyết tâm của EU trong việc vực dậy nông nghiệp nội khối, làm giảm đầu tư ra bên ngoài, đặc biệt là định hướng đầu tư nông nghiệp chất lượng cao vào các nước đang phát triển.
EU hiện là một trong ba thị trường xuất khẩu nông lâm thủy sản (NLTS) lớn nhất của Việt Nam. Theo thống kê của Tổng cục Hải quan, xuất khẩu nhóm hàng nông lâm thủy sản của Việt Nam sang thị trường EU trong giai đoạn 2017 - 2022 đạt trung bình khoảng 4 tỷ USD/năm, chiếm 9,7 – 13% trong tổng kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng NLTS của cả nước.
Biểu đồ: Kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam sang thị trường EU giai đoạn 2017 - 2022 (ĐVT: triệu USD)
Nguồn: Tính toán từ số liệu của Tổng cục Hải quan
Bảng: Mặt hàng xuất khẩu sang thị trường EU giai đoạn 2017 - 2022
(ĐVT: Nghìn USD)
|
Mặt hàng |
Năm 2017 |
Năm 2018 |
Năm 2019 |
Năm 2020 |
Năm 2021 |
Năm 2022 |
Tỷ trọng bình quân (%) |
|---|---|---|---|---|---|---|---|
|
Tổng NLTS |
4.254.094 |
4.080.196 |
3.828.582 |
3.628.613 |
4.070.441 |
4.384.557 |
100,0 |
|
Cà phê |
1.286.350 |
1.264.891 |
1.085.128 |
982.706 |
1.025.456 |
1.491.452 |
29,3 |
|
Hạt điều |
853.956 |
760.492 |
734.938 |
756.123 |
793.066 |
589.869 |
18,6 |
|
Gỗ và sản phẩm từ gỗ |
493.690 |
527.581 |
572.816 |
519.988 |
619.306 |
612.514 |
13,8 |
|
Rau quả |
124.247 |
139.903 |
173.419 |
181.567 |
193.283 |
186.260 |
4,1 |
|
Cao su |
182.186 |
140.324 |
147.909 |
119.720 |
191.897 |
112.197 |
3,7 |
|
Hạt tiêu |
156.352 |
113.813 |
112.929 |
115.897 |
180.889 |
147.049 |
3,4 |
|
Chè |
5.953 |
5.056 |
3.443 |
2.737 |
3.394 |
1.115 |
0,1 |
|
Gạo |
12.375 |
13.339 |
30.730 |
35.359 |
44.649 |
20.541 |
0,7 |
|
Thủy sản |
1.138.985 |
1.114.798 |
967.269 |
914.516 |
1.018.501 |
1.223.560 |
26,2 |
Nguồn: Tính toán từ số liệu của Tổng cục Hải quan
EU cũng là thị trường có nhu cầu tiêu thụ cao và ổn định đối với các mặt hàng nông nghiệp; tuy nhiên thị phần của Việt Nam tại EU mới chỉ chiếm tỷ trọng khiêm tốn, bình quân chưa tới 2% tổng kim ngạch nhập khẩu NLTS hàng năm của EU; các sản phẩm xuất khẩu chủ yếu dưới dạng thô hoặc sơ chế, cạnh tranh ở phân khúc thấp. Việc EU ban hành Chính sách Nông nghiệp chung mới đặt ra thêm thách thức cho nông sản Việt trong tiếp cận thị trường EU với các yêu cầu mới không chỉ về quy trình sản xuất nông nghiệp, tiêu chuẩn chất lượng hàng hóa, vệ sinh an toàn thực phẩm, mà còn là các vấn đề liên quan đến khí hậu, môi trường, phát triển bền vững…để được nhập khẩu, lưu hành tại thị trường EU.
Theo đó, để xuất khẩu hiệu quả nông sản sang EU, ngoài việc chủ động kiểm soát, nâng cao chất lượng sản phẩm từ khâu nuôi trồng, chế biến đến phân phối đảm bảo tuân thủ chặt chẽ tiêu chuẩn và quy định nhập khẩu của thị trường, các doanh nghiệp cần đẩy mạnh ứng dụng khoa học - kỹ thuật, các quy chuẩn thực hành tốt trong sản xuất, chủ động xây dựng các vùng nguyên liệu chuyên canh bền vững, quy mô tập trung theo chuỗi cung ứng nông nghiệp xanh, tuần hoàn; đồng thời quản lý tốt các nguồn tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường sinh thái và ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu.
