Các nội dung khác biệt giữa Hiệp định TRIPS và Hiệp định CPTPP sẽ được so sánh theo 3 phần:
1. Các vấn đề chung
Nghĩa vụ gia nhập hoặc tuân thủ các điều ước quốc tế
Nếu như Hiệp định TRIPS về cơ bản chỉ yêu cầu các nước thành viên tuân thủ các quy định về bảo hộ quyền SHTT tại Công ước Paris về quyền sở hữu công nghiệp và Công ước Berne về quyền tác giả đối với tác phẩm văn học và nghệ thuật, thì Hiệp định CPTPP còn yêu cầu các thành viên phải gia nhập 5 ĐƯQT khác về các lĩnh vực như sáng chế, nhãn hiệu, quyền tác giả và quyền đối với cuộc biểu diễn, bản ghi âm trên môi trường kỹ thuật số, giống cây trồng v.v..
Nghĩa vụ minh bạch hóa
Về minh bạch hóa chính sách, Hiệp định CPTPP cam kết cao hơn Hiệp định TRIPS khi yêu cầu phải công bố trên Internet các luật, quy định, quyết định xét xử hay các quyết định hành chính có hiệu lực áp dụng chung; cũng như các thông tin liên quan đến các đơn đăng ký và văn bằng bảo hộ đối với quyền sở hữu công nghiệp (SHCN) và quyền đối với giống cây trồng.
2. Mức độ bảo hộ
Đối với sáng chế, Hiệp định CPTPP đưa ra một quy định chưa hề được TRIPS đề cập, đó là thời gian ân hạn đối với tính mới. Theo đó, một sáng chế mặc dù đã được bộc lộ (ví dụ như đem đi triển lãm hoặc viết báo v.v.) thì khi được nộp đơn đăng ký trong vòng 12 tháng kể từ ngày bộc lộ sẽ vẫn được coi là mới. Trước khi gia nhập CPTPP, pháp luật VN cũng như của nhiều nước chỉ dừng ở thời hạn 6 tháng.
Đối với nhãn hiệu, điểm mới đáng chú ý nhất của Hiệp định CPTPP đó là nghĩa vụ bảo hộ nhãn hiệu âm thanh, thay vì chỉ dừng lại ở các dấu hiệu chữ hay hình truyền thống như từ trước tới nay.
Ngoài ra, CPTPP cũng có một số quy định mới về duy trì cơ sở dữ liệu điện tử về đơn và văn bằng bảo hộ đối với nhãn hiệu, cho phép đăng ký và gia hạn hiệu lực nhãn hiệu qua hệ thống mạng điện tử.
Đối với kiểu dáng công nghiệp, Hiệp định CPTPP mở rộng việc bảo hộ KDCN không chỉ đối với sản phẩm, mà còn áp dụng cả đối với các KDCN thể hiện ở một phần của sản phẩm, hoặc thể hiện ở một sản phẩm là bộ phận cấu thành trong tổng thể toàn bộ sản phẩm.
Đối với thông tin bí mật
Hiệp định TRIPS chỉ yêu cầu cơ chế bảo mật (tức là không tiết lộ cho bên thứ ba) đối với các dữ liệu thử nghiệm trong thủ tục nộp đơn xin cấp phép lưu hành thị trường đối với dược phẩm và nông hóa phẩm. Trong khi đó, Hiệp định CPTPP nâng lên thành cơ chế độc quyền, nghĩa là không những không được tiết lộ, mà còn không được sử dụng nếu chưa xin phép chủ sở hữu quyền.
Bên cạnh đó, thời hạn bảo mật 5 năm trong Hiệp định TRIPS cho nông hóa phẩm đã được kéo dài tới 10 năm trong Hiệp định CPTPP.
3. Các biện pháp bảo vệ quyền
Về biện pháp dân sự
Hiệp định CPTPP yêu cầu các thủ tục, chế tài dân sự áp dụng cho các hành vi xâm phạm quyền trên môi trường thực phải được áp dụng tương đương trên môi trường Internet.
Về biện pháp hình sự
Đối với xử lý hình sự hành vi giả mạo NH, sao lậu QTG ở quy mô thương mại, Hiệp định CPTPP bổ sung thêm hành vi sao lậu quyền liên quan ở quy mô thương mại.
Trong khi TRIPS cho phép các nước tự xác định thế nào là quy mô thương mại, thì CPTPP quy định “quy mô thương mại” đối với QTG, QLQ ít nhất phải bao gồm các hành vi thực hiện nhằm: (i) đạt lợi thế thương mại hoặc thu lợi về tài chính; hoặc nếu không, (ii) gây hại một cách đáng kể tới lợi ích của chủ thể QTG, QLQ.
Bên cạnh đó, các hành vi cố ý XK hàng giả mạo và sao lậu QTG ở quy mô thương mại cũng như xâm phạm bí mật thương mại qua hệ thống máy tính cũng phải được xử lý hình sự.
Ngoài ra, việc thực thi hình sự có thể được cơ quan có thẩm quyền chủ động thực hiện mà không cần yêu cầu của chủ thể quyền.
Về kiểm soát biên giới
Trong Hiệp định CPTPP, thẩm quyền chủ động kiểm soát biên giới phải được trao cho cơ quan hải quan; trong khi với Hiệp định TRIPS, các bên được lựa chọn có quy định hay không.
