Úc

Úc là một quốc gia có chủ quyền, bao gồm phần đất liền của lục địa Úc, đảo Tasmania và rất nhiều đảo nhỏ. Đây là quốc gia lớn nhất ở Châu Đại Dương và là quốc gia lớn thứ sáu trên thế giới tính theo tổng diện tích. Dân số 26 triệu người với mức đô thị hóa cao và tập trung nhiều ở vùng ven biển phía đông. Thủ đô của Úc là Canberra, còn thành phố lớn nhất là Sydney. Các đô thị lớn khác của đất nước là Melbourne, Brisbane, Perth và Adelaide.

Úc là đất nước ổn định, dân chủ và đa dạng về văn hóa, với lực lượng lao động có tay nghề cao và là một trong những nền kinh tế hiệu quả nhất trên thế giới. Cho đến thập niên 1960, Anh và Hoa Kỳ là những đối tác thương mại chính của Úc. Ngày nay, trọng tâm thương mại của Úc đã dịch chuyển sang châu Á, với bốn trong số năm đối tác thương mại hàng đầu của Úc là ở khu vực này. Trung Quốc, Nhật Bản, Hoa Kỳ và Hàn Quốc hiện là các đối tác thương mại lớn nhất của Úc.

Úc có một thị trường rất mở với những hạn chế tối thiểu đối với nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ. Điều này đã giúp tăng năng suất, kích thích tăng trưởng và khiến nền kinh tế linh hoạt và năng động hơn. Úc đã xây dựng được lợi thế cạnh tranh trong một loạt hàng hóa và dịch vụ, từ những sản phẩm công nghệ cao như thiết bị y tế và khoa học cho tới rượu vang chất lượng cao và thực phẩm chế biến. Xuất khẩu dịch vụ chính bao gồm giáo dục và du lịch, các dịch vụ chuyên môn và tài chính. Dịch vụ của các công ty Úc hoạt động ở nước ngoài cũng đóng góp đáng kể cho nền kinh tế Úc.

 

 

HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI TỰ DO
Các Hiệp định Thương mại tự do sau đây hiện đang có hiệu lực giữa Việt Nam và Úc
Tổng quan
  • Ngày ký: 2018-03-08
  • Ngày thực thi: 2018-12-30

Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương gọi tắt là Hiệp định CPTPP, là một hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới, gồm 11 nước thành viên là: Ốt-xtrây-li-a, Bru-nây, Ca-na-đa, Chi-lê, Nhật Bản, Ma-lai-xi-a, Mê-hi-cô, Niu Di-lân, Pê-ru, Xinh-ga-po và Việt Nam.

Hiệp định đã được ký kết ngày 08 tháng 3 năm 2018 tại thành phố San-ti-a-gô, Chi-lê, và chính thức có hiệu lực từ ngày 30 tháng 12 năm 2018 đối với nhóm 6 nước đầu tiên hoàn tất thủ tục phê chuẩn Hiệp định gồm Mê-hi-cô, Nhật Bản, Xinh-ga-po, Niu Di-lân, Ca-na-đa và Ốt-xtrây-lia. Đối với Việt Nam, Hiệp định có hiệu lực từ ngày 14 tháng 01 năm 2019.

Với tổng cộng 30 chương, CPTPP bao gồm gần như tất cả các khía cạnh thương mại giữa 11 thành viên CPTPP. Hiệp định có các cam kết tiếp cận thị trường đầy tham vọng trong thương mại hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, dịch chuyển lao động và mua sắm chính phủ. Hiệp định cũng thiết lập các quy tắc rõ ràng giúp tạo ra một môi trường kinh doanh nhất quán, minh bạch và công bằng tại các thị trường CPTPP, với các chương dành riêng cho các vấn đề chính như rào cản kỹ thuật đối với thương mại, các biện pháp vệ sinh và kiểm dịch thực vật, quản lý hải quan, minh bạch và doanh nghiệp nhà nước. Ngoài ra, CPTPP có các chương về bảo vệ môi trường và quyền lao động, có thể được thi hành bằng giải quyết tranh chấp, để đảm bảo rằng các thành viên CPTPP thực hiện các cam kết của họ trong các lĩnh vực này nhằm tăng cường thương mại hoặc đầu tư. Thỏa thuận cũng bao gồm nhiều chương khác nhau hướng tới hợp tác kỹ thuật liên quan đến thương mại giữa các thành viên CPTPP, bao gồm các doanh nghiệp vừa và nhỏ, phát triển và đồng bộ cơ sở pháp lý.

Để xem các thông tin cụ thể về Hàng hóa, Dịch vụ và Đầu tư, hãy chọn một hiệp định từ các tùy chọn bên dưới.

Các thành viên CPTPP cam kết xóa bỏ thuế nhập khẩu đối với gần như tất cả các dòng thuế trong Biểu thuế nhập khẩu. Các cam kết về tiếp cận thị trường được nêu chi tiết trong từng dòng thuế trong Biểu thuế nhập khẩu của CPTPP.

Các cam kết về việc xóa bỏ và giảm thuế nhập khẩu trong CPTPP được chia thành ba nhóm chính:

  1. Xóa bỏ thuế nhập khẩu ngay lập tức: Thuế nhập khẩu sẽ được gỡ bỏ ngay khi Hiệp định CPTPP có hiệu lực.
  2. Xóa bỏ thuế nhập khẩu theo lộ trình: Thuế nhập khẩu sẽ là 0% sau một thời gian nhất định (lộ trình). Trong CPTPP, đối với hầu hết các nước, lộ trình là 3 - 7 năm, tuy nhiên trong một số trường hợp có thể hơn 10 đến 20 năm.
  3. Áp dụng hạn ngạch thuế quan (TRQ): Đối với nhóm hàng hóa này, thuế nhập khẩu chỉ được bãi bỏ hoặc giảm với một lượng hàng hóa nhất định (gọi là Xóa bỏ/giảm thuế trong hạn ngạch). Khối lượng nhập khẩu vượt quá số lượng hạn ngạch theo cam kết sẽ không được hưởng ưu đãi theo TRQ và phải chịu mức thuế  nhập khẩu cao hơn.

 

Hàng hóa thuộc hiệp định này

Chương 10 của CPTPP về thương mại dịch vụ xuyên biên giới bao gồm các quy tắc hướng tới tạo thuận lợi cho việc trao đổi dịch vụ, được xây dựng trên các cam kết tại Hiệp định chung về thương mại dịch vụ của WTO năm 1995 (GATS), cụ thể như sau:

- Đối xử quốc gia (NT): Nước thành viên phải đảm bảo các nhà cung cấp dịch vụ của nước CPTPP khác được đối xử không kém thuận lợi hơn các nhà cung cấp dịch vụ trong nước.
- Đối xử tối huệ quốc (MFN): Nước thành viên phải đảm bảo các nhà cung cấp dịch vụ của một nước CPTPP được đối xử không kém thuận lợi hơn các các nhà cung cấp dịch vụ của các nước thành viên khác hoặc của bất cứ nước hay vùng lãnh thổ không phải là thành viên của hiệp định, và
- Tiếp cận thị trường (MA): Nước thành viên không được phép duy trì các biện pháp hạn chế tiếp cận thị trường đối với các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài.

Ngoài ra, CPTPP cũng quy định không Bên nào được yêu cầu nhà cung cấp dịch vụ của Bên khác thiết lập hoặc duy trì hiện diện tại nước sở tại tại lãnh thổ của bên đó như một điều kiện để cung cấp dịch xuyên biên giới. 
Ngoài các nghĩa vụ trên, CPTPP cho phép mỗi Bên duy trì linh hoạt chính sách thông qua các bảo lưu gọi là "các biện pháp không tương thích" (NCMs), cho phép Chính phủ các Bên duy trì các ngoại lệ trong các chương về dịch vụ và đầu tư tại CPTPP bằng cách liệt kê các biện pháp hoạt động hoặc lĩnh vực cụ thể mà tại đó các nghĩa vụ trên không được áp dụng. Điều này giúp đảm bảo các Chính phủ có thể tiếp tục giữ các biện pháp và chính sách về dịch vụ và đầu tư, dựa trên các ưu tiên trong nước. Danh sách NCMs được trình bày tại Phụ lục I và II của Hiệp định.

CPTPP có chương riêng về Dịch vụ Tài chính, bao gồm các biện pháp được các nước CPTPP thông qua hoặc duy trì liên quan đến tổ chức tài chính, nhà đầu tư và các khoản đầu tư tương ứng của họ vào tổ chức tài chính, và thương mại xuyên biên giới về dịch vụ tài chính. Được xây dựng dựa trên nghĩa vụ đối xử quốc gia, nghĩa vụ MFN và tiếp cận thị trường theo GATS, chương Dịch vụ Tài chính:
•       bao gồm các nghĩa vụ về minh bạch hóa nhằm giúp nhà cung cấp dịch vụ tài chính định hướng tốt hơn khuôn khổ pháp lý tại các nước CPTPP (ví dụ, bằng cách thiết lập quy tắc quy định các nước CPTPP cần đăng tải trước các quy định của ngành tài chính)
•       tạo cơ hội cho các cơ quan tài chính thảo luận thông qua ủy ban về bất cứ vấn đề nào liên quan đến ngành tài chính (ví dụ, để tránh hoặc giải quyết các rào cản không cần thiết khi tham gia thị trường mà các tổ chức tài chính gặp phải tại các nước CPTPP)
•       kết hợp các biện pháp bảo vệ từ chương đầu tư để bảo vệ các nhà đầu tư dịch vụ tài chính và các khoản đầu tư dịch vụ tài chính, và
•       bao gồm ngoại lệ thận trọng, đảm bảo các cơ quan tài chính có thể thực hiện các biện pháp vì lý do thận trọng để bảo vệ sự vững chắc của hệ thống tài chính và lợi ích của người tiêu dùng dịch vụ tài chính mà không vi phạm CPTPP.

Theo Phụ lục III của Hiệp định, mỗi nước CPTPP liệt kê NCMs trong dịch vụ tài chính, được sắp xếp vào hai phần:
•       Phần A bao gồm các bảo lưu cho các NCMs hiện tại mà các nước CPTPP không thể hạn chế hơn trong tương lai; và 
•       Phần B bao gồm các bảo lưu cho lĩnh vực và hoạt động mà các nước CPTPP mong muốn duy trì tính linh hoạt chính sách trong hiện tại và tương lai. Vì mục đich minh bạch, Phần B cũng có thể bao gồm một danh sách không đầy đủ các biện pháp hiện tại áp dụng cho các lĩnh vực hoặc hoạt động được bảo lưu.

Các chương riêng về Viễn thông và Thương mại điện tử cũng được đưa vào CPTPP do vai trò ngày càng quan trọng là phương tiện vận chuyển dịch vụ và hỗ trợ thương mại quốc tế, đặc biệt là cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các nghĩa vụ tại chương Viễn thông áp dụng cho các biện pháp của chính phủ ảnh hưởng đến thương mại dịch vụ viễn thông, với mục tiêu đảm bảo các công ty viễn thông của các Nước thành viên CPTPP được đối xử công bằng ở các thị trường quốc gia đó. Các quy định này bao gồm một bộ quy tắc toàn diện để đảm bảo các công ty viễn thông lớn với vị trí thống lĩnh thị trường cung cấp cho các nhà cung cấp viễn thông nước ngoài quyền truy cập vào các dịch vụ và cơ sở hạ tầng quan trọng theo các điều khoản và điều kiện hợp lý. Các quy tắc này sẽ giúp các nhà cung cấp hiện tại chắc chắn hơn về điều kiện hoạt động và không gian để các nước mới tham gia vào thị trường.

Chương Thương mại Điện tử ("e-commerce") đảm bảo các giao dịch điện tử giữa các nước CPTPP diễn ra hiệu quả với những biện pháp bảo vệ người tiêu dùng phù hợp. Chương này cũng bao gồm các nguyên tắc mới ủng hộ sự mở rộng vai trò của internet trong thương mại quốc tế. Các nghĩa vụ của chương e-commerce hoạt động cùng với các nguyên tắc được đặt ra tại các chương Thương mại Xuyên Biên giới trong Dịch vụ, Đầu tư và Dịch vụ Tài chính, bao gồm các ngoại lệ ("các biện pháp không tương thích") được duy trì bởi các Nước thành viên CPTPP theo các chương này.

Dịch vụ thuộc hiệp định này

Theo CPTPP, mỗi Bên đảm bảo quyền tiếp cận thị trường cho các nhà đầu tư từ một Bên khác, cũng như các dịch vụ được cung cấp trên lãnh thổ của Bên đó bằng khoản đầu tư được bảo hộ của các nhà đầu tư, theo các nguyên tắc được nêu trong Chương 9 của CPTPP về Đầu tư.

Ngoài nghĩa vụ đối xử quốc gia (NT) và đối xử tối huệ quốc (MFN) như trong lĩnh vực Dịch vụ Thương mại Xuyên Biên giới, chương Đầu tư của Hiệp định CPTPP có một số nghĩa vụ chính như sau:

  • Tiêu chuẩn đối xử tối thiểu: Các nước cam kết dành cho các nhà đầu tư nước ngoài sự đối xử công bằng và thỏa đáng khi tiến hành các thủ tục tố tụng hình sự, dân sự hoặc hành chính, cũng như bảo đảm an toàn cho các khoản đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài phù hợp với pháp luật tập quán quốc tế.
  • Tước quyền sở hữu: Trong trường hợp thực sự cần thiết, ví dụ vì mục đích công, chính phủ một Bên có thể tước quyền sở hữu hoặc quốc hữu hóa khoản đầu tư được bảo hộ. Tuy nhiên, việc này phải được thực hiện trên cơ sở không phân biệt đối xử và có sự đền bù thỏa đáng, kịp thời và hiệu quả, phù hợp với pháp luật của nước liên quan và quy định của Hiệp định CPTPP. 
  • Chuyển tiền: Các nhà đầu tư nước ngoài được phép tự do chuyển tiền liên quan đến khoản đầu tư được bảo hộ. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, một Bên có thể hạn chế hoạt động này của nhà đầu tư nước ngoài vì mục đích kiểm soát vốn trong bối cảnh khủng hoảng cán cân thanh toán hoặc khủng hoảng kinh tế.
  • Không áp đặt các “yêu cầu thực hiện”: Các nước không được duy trì các yêu cầu buộc nhà đầu tư nước ngoài phải thực hiện để được cấp phép đầu tư hay được hưởng các ưu đãi đầu tư.
  • Không áp đặt các yêu cầu về bổ nhiệm nhân sự (SMBD): Không Bên nào được yêu cầu công ty có vốn đầu tư nước ngoài phải bổ nhiệm các nhân sự cấp cao thuộc một quốc tịch nào đó.

Tương tự như thương mại dịch vụ xuyên biên giới, CPTPP cho phép mỗi Bên duy trì một danh sách các các biện pháp không tương thích (NCM) trong lĩnh vực đầu tư, giúp đảm bảo rằng các chính phủ có thể tiếp tục duy trì các biện pháp và chính sách đầu tư dựa trên các ưu tiên trong nước, cũng như bảo lưu các lĩnh vực hoặc hoạt động muốn duy trì hoàn toàn tính linh hoạt chính sách trong hiện tại và tương lai. Danh sách các NCM được trình bày trong Phụ lục I và II của Hiệp định.

Trong Phụ lục I, mỗi quốc gia CPTPP có một danh sách các biện pháp không tương thích ảnh hưởng đến các dịch vụ và đầu tư đã tồn tại ở quốc gia đó tại thời điểm CPTPP được ký kết và quốc gia đó dự định duy trì. Các biện pháp này không cần phải thay đổi ngay cả khi chúng không phù hợp với một số nghĩa vụ nhất định trong Hiệp định. Các quốc gia cũng đưa ra cam kết rằng các biện pháp không tương thích được liệt kê trong Phụ lục I sẽ không bị hạn chế hơn trong tương lai (được gọi là cơ chế chỉ tiến không lùi - “ratchet”). Đối với Việt Nam, cơ chế chỉ tiến không lùi chỉ áp dụng ba năm sau khi có hiệu lực của CPTPP.

Trong Phụ lục II, mỗi quốc gia CPTPP có bảo lưu cho các lĩnh vực hoặc hoạt động mà quốc gia đó muốn duy trì hoàn toàn sự linh hoạt chính sách trong hiện tại và tương lai. Điều này cho phép Việt Nam duy trì sự linh hoạt chính sách trong các lĩnh vực nhạy cảm như quyền sở hữu đất đai, các vấn đề liên quan đến bản địa và thiểu số, văn hóa và dịch vụ xã hội (bao gồm cả y tế và giáo dục công cộng) và một số dịch vụ vận tải. Các bảo lưu này cho phép mỗi quốc gia CPTPP đưa ra các biện pháp mới trong các lĩnh vực này trong tương lai dựa trên các ưu tiên trong nước, bất kể các cam kết của họ trong CPTPP.

Đầu tư thuộc hiệp định này