Về nội dung cam kết Chương Sở hữu trí tuệ trong Hiệp định UKVFTA, về cơ bản, Chương này thừa hưởng phần lớn nội dung cam kết Chương Sở hữu trí tuệ trong Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EVFTA).
Chương Sở hữu trí tuệ bao gồm các nội dung chính là:
- Cam kết chung: Điều chỉnh các vấn đề như phạm vi, nguyên tắc đối xử tối thuệ quốc và vấn đề cạn quyền.
- Cam kết cụ thể về Quyền tác giả và quyền liên quan; Nhãn hiệu, Chỉ dẫn địa lý; Kiểu dáng công nghiệp; Sáng chế; Giống cây trồng; Thực thi quyền sở hữu trí tuệ; Hợp tác và thể chế.
Để thấy được đặc điểm nổi bật của Chương SHTT trong Hiệp định UKVFTA, bài viết sẽ tiến hành so sánh cơ bản Hiệp định UKVFTA với Hiệp định TRIPS của WTO. Cụ thể theo 3 phần:
(i) Về các vấn đề chung
(ii) Về mức độ bảo hộ.
(iii) Về các biện pháp bảo vệ quyền, bao gồm các biện pháp dân sự, và biện pháp kiểm soát biên giới.
Về các vấn đề chung
Đối với nghĩa vụ phải gia nhập hoặc tuân thủ các điều ước quốc tế khác liên quan đến SHTT, Hiệp định TRIPS về cơ bản chỉ yêu cầu các nước thành viên tuân thủ các quy định về bảo hộ quyền SHTT tại Công ước Paris về quyền sở hữu công nghiệp và Công ước Berne về quyền tác giả đối với tác phẩm văn học và nghệ thuật, còn Hiệp định UKVFTA yêu cầu các thành viên phải gia nhập thêm 03 ĐƯQT khác, là:
(i) Hiệp ước của WIPO về quyền tác giả (gọi tắt là WCT);
(ii) Hiệp ước của WIPO về quyền đối với cuộc biểu diễn, bản ghi âm trên môi trường kỹ thuật số (gọi tắt là WPPT);
(iii) Thỏa ước La Hay về đăng ký quốc tế kiểu dáng công nghiệp (gọi tắt là Thỏa ước La Hay).
Về mức độ bảo hộ
Đối với sáng chế, Hiệp định UKVFTA đưa ra một quy định chưa hề được TRIPS đề cập, đó là cơ chế đền bù cho chủ sở hữu sáng chế nếu thủ tục xin cấp phép lưu hành thị trường lần đầu cho dược phẩm được sản xuất theo sáng chế đó bị chậm trễ một cách bất hợp lý.
Đối với nhãn hiệu, so với TRIPS, UKVFTA bổ sung riêng một điều khoản về chấm dứt hiệu lực nhãn hiệu, theo đó:
(i) thời hạn không sử dụng nhãn hiệu dẫn đến khả năng bị chấm dứt hiệu lực trong UKVFTA thời hạn này là 5 năm, cao hơn TRIPS 2 năm;
(ii) có thể chấm dứt hiệu lực nếu nhãn hiệu trở thành tên gọi chung của sản phẩm hoặc dịch vụ mà nhãn hiệu đó đăng ký;
(iii) nhãn hiệu dù đã được bảo hộ nhưng việc sử dụng nhãn hiệu đó trên thực tế có thể gây nhầm lẫn cho công chúng về bản chất, chất lượng hoặc nguồn gốc địa lý của hàng hóa/dịch vụ thì vẫn có thể bị chấm dứt hiệu lực.
Đối với kiểu dáng công nghiệp, Hiệp định UKVFTA đặt điều kiện khắt khơn hơn đối với việc bảo hộ KDCN của sản phẩm là bộ phận của sản phẩm tổng thể, theo đó KDCN của bộ phận này phải nhìn thấy được trong quá trình sử dụng sản phẩm tổng thể, và phần nhìn thấy được này cũng đáp ứng điều kiện là kiểu dáng công nghiệp.
Đối với chỉ dẫn địa lý,
So với TRIPS, Hiệp định UKVFTA yêu cầu phải duy trì một hệ thống đăng ký và bảo hộ CDĐL riêng với ít nhất 4 yếu tố: (i) có đăng bạ CDĐL; (ii) có quy trình thẩm định điều kiện bảo hộ; (iii) có thủ tục phản đối; (iv) có thủ tục sửa đổi, loại bỏ, chấm dứt hiệu lực CDĐL trong đăng bạ.
Hiệp định UKVFTA cũng quy định điều kiện tương tự TRIPS cho CDĐL đồng âm nhưng mở rộng cho mọi sản phẩm, không chỉ dừng lại ở rượu vang.
Hiệp định UKVFTA còn đặc biệt so với TRIPS ở chỗ là Hiệp định đưa ra cơ chế bảo hộ danh sách các CDĐL cụ thể.
Về bảo vệ quyền
Về biện pháp dân sự:
Về giả định chủ thể quyền, trong lĩnh vực QTG, QLQ, Hiệp định UKVFTA yêu cầu khi không có chứng cứ ngược lại, thì những người được nêu tên theo cách thông thường là tác giả, người biểu diễn, nhà sản xuất hoặc nhà xuất bản đều được coi là chủ thể quyền và có thể thực hiện các thủ tục chống lại hành vi xâm phạm quyền.
Về bồi thường thiệt hại, Hiệp định UKVFTA quy định cụ thể và mang tính bắt buộc hơn Hiệp định TRIPS về nghĩa vụ phải trả chi phí của bên thua. Các chi phí buộc phải trả bao gồm án phí, phí thuê luật sư và các chi phí khác nếu có.
Về thực thi quyền trên môi trường kỹ thuật số, Hiệp định UKVFTA đã vượt hẳn so với Hiệp định TRIPS khi bổ sung quy định về việc vô hiệu hóa biện pháp công nghệ bảo vệ quyền (TPM) hay thay đổi thông tin quản lý quyền (RMI) cũng bị coi là hành vi xâm phạm và phải bị xử lý, dù về bản chất, đây mới chỉ là tiền đề của việc xâm phạm. Ngoài ra, Hiệp định UKVFTA còn yêu cầu quy định cụ thể về trách nhiệm pháp lý của các nhà cung cấp dịch vụ trung gian (hay gọi là các ISP) trong quá trình xử lý hành vi xâm phạm QTG, QLQ trên môi trường Internet.
Về kiểm soát biên giới:
Hiệp định UKVFTA yêu cầu kiểm soát đối với cả hàng nhập khẩu và xuất khẩu, trong đó kiểm soát xuất khẩu áp dụng nếu hành vi xuất khẩu hàng giả mạo và sao chép lậu là hành vi xâm phạm quyền theo pháp luật quốc gia nơi hàng hóa bị phát hiện.
Về đối tượng, Hiệp định TRIPS quy định việc kiểm soát chỉ áp dụng đối với hàng giả mạo nhãn hiệu và sao chép lậu QTG, còn Hiệp định UKVFTA mở rộng thêm cả hàng giả mạo CDĐL.
