Tin tức

Một số thông tin về mức sống, tài chính – tiền tệ, đầu tư, thương mại và thuế trong giai đoạn 2018-2023 của Trung Quốc

Thứ Sáu, 04/10/2024

Trong giai đoạn 2018-2023 (thuộc giai đoạn rà soát chính sách thương mại lần thứ 9 của Trung Quốc tại WTO), Trung Quốc vẫn luôn là động lực quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế toàn cầu. Sau đại dịch nền kinh tế phục hồi tốt, xuất khẩu và nhập khẩu tiếp tục tăng. Tăng trưởng thương mại hàng hóa trung gian vượt xa tăng trưởng thương mại hàng hóa nói chung, cho thấy Trung Quốc đang hội nhập sâu hơn vào chuỗi cung ứng quốc tế. Tuy nhiên, sự thay đổi về cấu trúc mà nước này đã thực hiện trước đó là chuyển từ công nghiệp sang dịch vụ đã dừng lại.

Trong vài thập kỷ qua, các cải cách theo định hướng thị trường, tự do hóa kinh tế và hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu của Trung Quốc đã làm cho mức sống được cải thiện mạnh mẽ, làm xuất hiện một tầng lớp trung lưu lớn và xóa bỏ tình trạng nghèo đói bần cùng. GDP bình quân đầu người tăng từ 10.144 đô la Mỹ vào năm 2019 lên 12.614 đô la Mỹ vào năm 2023. Tuy nhiên, sự tăng trưởng mạnh mẽ của Trung Quốc cũng đi kèm với sự khác biệt và bất bình đẳng lớn về thu nhập và giàu nghèo giữa thành thị và nông thôn.

Về chính sách tiền tệ, mục tiêu chính của Trung Quốc vẫn là ổn định giá cả. Trong vài năm qua tỷ lệ lạm phát duy trì ở mức thấp, tối đa là 2,9% vào năm 2019. Trung Quốc đã duy trì chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi có quản lý.

Thặng dư tài khoản vãng lai của Trung Quốc tăng đáng kể trong giai đoạn 2018-2022, đạt 2,24% GDP, nhưng giảm vào năm 2023 xuống còn 1,5% GDP. Sự gia tăng trong thặng dư tài khoản vãng lai cho đến năm 2022 chủ yếu phản ánh thặng dư ngày càng tăng trong thương mại hàng hóa và sự suy giảm đáng kể trong thâm hụt cán cân dịch vụ, chủ yếu là do du lịch ra nước ngoài giảm. Thâm hụt của tài khoản tài chính (không bao gồm tài sản dự trữ) có thể phản ánh áp lực dòng vốn chảy ra, chủ yếu là do chênh lệch lãi suất với các nền kinh tế lớn khác, do lo ngại về triển vọng tăng trưởng của Trung Quốc và rủi ro địa chính trị gia tăng.

Cấu trúc của khu vực tài chính cho thấy các ngân hàng chiếm ưu thế đáng kể so với các loại hình tổ chức tài chính khác, trong đó tài sản của sáu ngân hàng lớn của nhà nước chiếm 40,8%. Sự phát triển trong lĩnh vực tài chính được đánh dấu bằng việc cho phép mở rộng sự tham gia của nước ngoài và thu hút vốn dài hạn cho các hoạt động và đầu tư tại Trung Quốc. Nhiều nỗ lực đáng kể được thực hiện để thúc đẩy tài chính xanh trong nước.

Tuy nhiên, dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Trung Quốc đã giảm từ 189 tỷ đô la Mỹ vào năm 2022 xuống còn 163 tỷ đô la Mỹ vào năm 2023. Ngành sản xuất vẫn là ngành tiếp nhận FDI lớn nhất. Tổng vốn FDI vào của Trung Quốc đạt 3,8 nghìn tỷ đô la Mỹ vào năm 2022 (năm gần nhất có dữ liệu), tăng từ 1,9 nghìn tỷ đô la Mỹ vào năm 2020, trong khi vốn FDI ra của Trung Quốc đạt gần 3 nghìn tỷ đô la Mỹ vào năm 2022, tăng từ 2,6 nghìn tỷ đô la Mỹ vào năm 2020.

Xuất khẩu hàng hóa tăng từ 2.589 tỷ đô la Mỹ năm 2020 lên 3.594 tỷ đô la Mỹ năm 2022 nhưng giảm vào năm 2023 xuống còn 3.380 tỷ đô la Mỹ. Hoa Kỳ và Liên minh châu Âu vẫn là những điểm đến quan trọng nhất đối với xuất khẩu hàng hóa của Trung Quốc. Nhập khẩu hàng hóa cũng tăng đáng kể, từ 2.069 tỷ đô la Mỹ năm 2020 lên 2.716 tỷ đô la Mỹ năm 2022, nhưng sau đó giảm vào năm 2023 xuống 2.557 tỷ đô la Mỹ. Xuất khẩu dịch vụ cũng tăng mạnh từ năm 2020 đến 2022 nhưng giảm vào năm 2023, trong khi nhập khẩu dịch vụ tăng đáng kể từ năm 2020 đến năm 2023.

Cơ cấu thuế quan vẫn không thay đổi nhiều kể từ đợt đánh giá trước. Mức thuế MFN trung bình đơn giản áp dụng năm 2024 là 7,0% so với 7,1% năm 2021. Các sản phẩm nông nghiệp có mức thuế quan cao hơn, ở mức 12,6%. Thuế quan áp dụng với các sản phẩm phi nông nghiệp trung bình giảm xuống còn 6,1% từ 6,2% năm 2021. Tỷ lệ thuế quan trên 15% là 4,3% so với 4,5% năm 2021.

Thuế suất VAT hiện tại là 13%, 9%, 6% và 3%, không thay đổi kể từ đợt đánh giá trước. Thuế tiêu thụ đặc biệt tiếp tục đánh vào các sản phẩm được coi là có hại cho sức khỏe con người, trật tự xã hội và môi trường; hàng xa xỉ; sản phẩm tiêu thụ năng lượng cao và cao cấp; và các sản phẩm dầu mỏ không tái tạo và không thay thế được. Vào tháng 11 năm 2022, Trung Quốc đã áp dụng thuế tiêu thụ đối với thuốc lá điện tử ở mức 36% ở giai đoạn sản xuất và nhập khẩu và 11% ở giai đoạn bán buôn. Theo Luật Thuế mua xe năm 2019, Trung Quốc đánh thuế 10% đối với các loại xe sản xuất trong nước và nhập khẩu, không thay đổi kể từ đợt đánh giá trước.

Nguồn: Vụ Chính sách thương mại đa biên (Theo WTO)


Bài viết liên quan