Nghĩa vụ Đối xử quốc gia trong tự do hoá đầu tư căn cứ theo Điều 8.5 trong Hiệp định EVFTA được quy định khác nhau trong 2 giai đoạn: (i) giai đoạn thành lập và (ii) giai đoạn hoạt động (sau thành lập).
- Đối với nghĩa vụ đối xử quốc gia trong giai đoạn thành lập: Đối với các ngành và phân ngành đã liệt kê tại Biểu cam kết cụ thể và phù hợp với các điều kiện và trình độ chuyên môn được liệt kê trong Biểu đó, các Bên sẽ đối xử với nhà đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp của nhà đầu tư đó không kém thuận lợi hơn so với nhà đầu tư và doanh nghiệp của nhà đầu tư đó trong nước, trong hoàn cảnh “tương tự”.
- Đối với nghĩa vụ đối xử quốc gia trong giai đoạn hoạt động: Đối với tất cả các ngành và phân ngành (dù có liệt kê tại Biểu cam kết cụ thể hay không), các Bên sẽ đối xử với nhà đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp của nhà đầu tư đó không kém thuận lợi so với nhà đầu tư và doanh nghiệp trong nước, trong hoàn cảnh “tương tự”.
Việt Nam có 17 ngành và phân ngành được loại trừ áp dụng nghĩa vụ Đối xử quốc gia tại Phụ lục 8C bao gồm: cơ quan báo chí và cơ quan thu thập tin tức, in ấn, phát hành, phát thanh và truyền hình dưới mọi hình thức; sản xuất và phân phối các sản phẩm văn hóa, bao gồm các bản ghi hình; sản xuất, phân phối, và chiếu các chương trình ti vi và các tác phẩm điện ảnh; điều tra và an ninh; trắc địa và bản đồ; dịch vụ giáo dục tiểu học và trung học; thăm dò, khai thác và chế biến tài nguyên thiên nhiên, khoáng sản, dầu và khí; thủy điện và năng lượng hạt nhân; truyền tài hoặc phân phối điện; dịch vụ vận tải hàng hải; thủy sản và nuôi trồng thủy sản; lâm nghiệp và săn bắn; xổ số, cá cược và đánh bạc; các dịch vụ hành chính tư pháp, bao gồm nhưng không chỉ là dịch vụ liên quan đến quốc tịch; thi hành án dân sự; sản xuất vật liệu hoặc thiết bị quân sự; hoạt động và quản lý cảng sông, cảng biển và sân bay; và trợ cấp. Đối với 17 ngành này, trên cơ sở phù hợp với nội dung tại Biểu cam kết cụ thể của mình, Việt Nam được quyền áp dụng bất kỳ biện pháp phân biệt đối xử nào giữa doanh nghiệp của nhà đầu tư nước ngoài so với doanh nghiệp của nhà đầu tư trong nước trong quá trình hoạt động.
Đồng thời, trên cơ sở phù hợp với cam kết của mỗi Bên tại Biểu cam kết cụ thể, Việt Nam và EU vẫn có thể áp dụng biện pháp phân biệt đối xử trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp nếu biện pháp đó thuộc một trong 3 trường hợp như sau:
(a) Biện pháp đó đã được ban hành vào hoặc trước thời điểm EVFTA có hiệu lực;
(b) Biện pháp đã được ban hành vào hoặc trước thời điểm EVFTA có hiệu lực nhưng được thay thế, bổ sung, sửa đổi sau ngày Hiệp định có hiệu lực, miễn là biện pháp đó không kém thuận lợi hơn với biện pháp tồn tại trước đó.
(c) Biện pháp được ban hành sau thời điểm EVFTA có hiệu lực nhưng không gây ra bất kỳ mất mát hay tổn thất nào cho doanh nghiệp được thành lập trên lãnh thổ nước đó trước khi biện pháp đó được ban hành.
Như vậy, quy định linh hoạt này sẽ góp phần giúp Việt Nam có cơ sở để chủ động đưa ra các biện pháp quản lý hướng tới các mục tiêu chính sách công cộng trong khi vẫn đảm bảo tuân thủ các nghĩa vụ của Hiệp định.
Ngoài ra, nếu một Bên muốn bảo lưu các biện pháp vi phạm thì phải liệt kê cụ thể trong Biểu cam kết của mình, trong đó EU liệt kê tại phụ lục 8A và Việt Nam liệt kê tại Phụ lục 8B. Ngoài ra, Việt Nam có thêm cam kết tại phụ lục 8C- Ngoại lệ Đối xử quốc gia./.
Nguồn:
1. Vụ Chính sách thương mại đa biên, Bộ Công Thương.
2. Văn kiện Hiệp định EVFTA.
3. Văn kiện Hiệp định GATS.
