BAM đại diện cho một nút giao quan trọng giữa chính sách thương mại và môi trường. Các cơ chế này là cách thức dẫn tới điều chỉnh các mục tiêu kinh tế và môi trường một cách hiệu quả; tuy nhiên việc triển khai thành công còn phụ thuộc vào một số yếu tố khác như hợp tác quốc tế, tính minh bạch và cách thức xác định hiệu quả. Bài viết này tập trung vào việc so sánh Cơ chế điều chỉnh biên giới các-bon của Liên minh châu Âu (EU CBAM); Dự luật chuyển đổi và cạnh tranh công bằng, giá cả phải chăng, sáng tạo và bền vững (Đạo luật FAIR); Dự luật cạnh tranh sạch (CCA); Dự luật phí ô nhiễm nước ngoài (FPFA).
EU CBAM đã có hiệu lực từ ngày 1 tháng 10 năm 2023 và hiện đang trong quá trình phát triển, trong khi CCA và FPFA đang là dự luật đề xuất. Dự luật FAIR đã được giới thiệu trong Quốc hội thứ 117 của Hoa Kỳ (2021-2023) và không được thông qua.
Tất cả các BAM đều có chung hai mục tiêu chính. Mục tiêu đầu tiên là bảo vệ khả năng cạnh tranh trong nước. Cụ thể, chúng hướng đến việc bảo vệ các ngành công nghiệp trong nước tham gia vào thương mại quốc tế trong lúc các ngành công nghiệp này triển khai các hoạt động để giảm phát thải. Mối quan tâm ở đây là rò rỉ các-bon,
khi các chính sách khí hậu trong nước có thể vô tình chuyển lượng khí thải sang các khu vực khác, làm suy yếu hiệu quả của chính sách. Mục tiêu thứ hai là tạo động lực cho các đối tác thương mại. Các cơ chế này khuyến khích các đối tác thương mại tăng tham vọng trong mục tiêu khí hậu, đồng thời duy trì quyền tiếp cận thị trường của các quốc gia có tham vọng cao.
EU CBAM hoạt động song song với Hệ thống giao dịch phát thải EU (ETS), một khuôn khổ định giá các-bon mạnh mẽ nhằm mục đích khử các-bon đối với các ngành công nghiệp EU và Liên minh châu Âu nói chung. Hơn nữa, EU CBAM đóng vai trò khuyến khích các quốc gia khác áp dụng định giá các-bon như một công cụ cơ bản để đạt được các mục tiêu khử các-bon.
CCA được liên kết chặt chẽ với khuôn khổ quản lý trong nước nhằm mục đích giảm phát thải khí nhà kính (GHG) từ khu vực công nghiệp. CCA đưa ra một tiêu chuẩn hiệu suất, được đo bằng GHG trên một tấn sản phẩm, để thúc đẩy việc giảm phát thải trong các quy trình công nghiệp. CCA đặt ra một chuẩn mực cho cường độ GHG - được đo bằng tấn GHG phát thải trên một tấn sản phẩm. Những nhà sản xuất vượt quá chuẩn mực này phải trả một khoản phí, trong khi những nhà sản xuất dưới chuẩn mực này không phải trả bất kỳ khoản phí nào. Để đẩy nhanh quá trình giảm cường độ GHG theo thời gian, chuẩn mực này sẽ giảm hàng năm. Đồng thời, mức phí cũng tăng dần. Các khoản phí thu được thông qua CCA sẽ được tái đầu tư để khuyến khích các công nghệ các-bon thấp và các sáng kiến giảm phát thải khác trong khu vực công nghiệp.
Khác với các cách tiếp cận khác, FPFA không bao gồm chương trình quản lý để giảm phát thải công nghiệp. Điều này phù hợp với mục tiêu của FPFA là giảm nhập khẩu GHG tích hợp trong luồng thương mại của Hoa Kỳ thay vì tập trung vào việc giảm thêm phát thải từ các nguồn trong nước.
Về phạm vi điều chỉnh, CBAM của EU bao gồm sáu danh mục sản phẩm được bảo hộ bao gồm xi măng, điện, phân bón, sắt và thép, nhôm, hydro. Danh mục hàng hóa được bảo hộ của danh mục này được xác định dựa trên mã danh mục kết hợp (CN). Hệ thống CN phù hợp với danh mục Hệ thống hài hòa (HS) toàn cầu. Trong khi mã CN có thể mở rộng lên đến tám chữ số, một số danh mục CBAM của EU sử dụng hai mã bốn chữ số, với các miễn trừ cụ thể. Ví dụ, trong trường hợp sắt và thép, danh mục toàn diện các mặt hàng thuộc phạm vi điều chỉnh ở cấp độ tám chữ số bao gồm hơn 100 mặt hàng cụ thể.
CCA áp dụng phí cho cả sản phẩm thô và thành phẩm. Việc xác định các sản phẩm thuộc phạm vi điều chỉnh được thực hiện bằng cách thiết lập một ngành công nghiệp quốc gia sử dụng mã NAICS sáu chữ số. Có 20 ngành công nghiệp quốc gia được xác định. Tương tự như EU CBAM, mỗi ngành công nghiệp quốc gia thuộc phạm vi điều chỉnh sẽ sản xuất ra vô số sản phẩm riêng lẻ. Theo thời gian, trọng lượng và giá trị tối thiểu thuộc phạm vi áp dụng của CCA sẽ giảm dần. Hàng hóa thành phẩm phải chịu phí dựa trên số lượng sản phẩm thô tạo ra chúng, được tính bằng trọng lượng. CCA áp dụng phạm vi sản phẩm thô rộng hơn nhiều so với EU CBAM; và áp dụng phí không chỉ đối với cả các sản phẩm thô và thành phẩm.
FPFA áp dụng phí đối với cả sản phẩm thô và thành phẩm (sản phẩm sản xuất). Để xác định sản phẩm nào thuộc phạm vi điều chỉnh, FPFA sử dụng mã Biểu thuế hài hòa (HTS) gồm sáu chữ số. Theo đó, một lượng lớn sản phẩm có thể phải chịu phí, tuỳ thuộc vào danh mục cụ thể. Điểm khác biệt giữa FPFA với các BAM khác là các nhà sản xuất trong nước có khả năng gửi đơn kiến nghị lên Bộ trưởng Bộ Năng lượng Hoa Kỳ để thêm sản phẩm do ngành của họ sản xuất vào danh sách các mặt hàng thuộc phạm vi điều chỉnh. Quy trình này không chỉ mở rộng đến các tổ chức thương mại đại diện cho các nhà sản xuất mà còn bao gồm các công đoàn lao động liên quan đến sản xuất và từng nhân viên tham gia vào hoạt động sản xuất./.
Nguồn: Vụ Chính sách thương mại đa biên
