Tin tức

So sánh các cơ chế điều chỉnh biên giới hiện tại của EU và Hoa Kỳ (BAM) (Phần 2)

Thứ Tư, 23/10/2024

Tiếp nối kỳ 1, kỳ 2 tiếp tục phân tích những điểm khác nhau của trong cơ chế điều chỉnh các-bon biên giới của EU và Hoa Kỳ, bao gồm tác động về chi phí.

Về phí, EU CBAM được mở rộng từ ETS. Theo ETS, các nhà máy công nghiệp hoạt động tại EU được yêu cầu phải nộp lại một khoản phí đối với mỗi tấn GHG phát thải từ quy trình sản xuất của họ. Các nhà nhập khẩu (hay được gọi là "người khai báo") những sản phẩm thuộc phạm vi áp dụng sẽ theo đó phải đối mặt với các nghĩa vụ cụ thể. Các sản phẩm thuộc phạm vi điều chỉnh này sẽ phải chịu phí CBAM. Những người nhập khẩu phải mua và nộp lại “chứng chỉ CBAM" (về cơ bản là các khoản ETS ảo được phân bổ) trên thị trường ETS. Số lượng chứng chỉ CBAM cần mua tương ứng với lượng GHG có trong các sản phẩm mà họ dự kiến nhập khẩu. Thách thức nằm ở chỗ giá thị trường của ETS có thể biến động do nhu cầu; từ đó nảy sinh một số bất cập liên quan đến giá mà người khai báo phải trả để nhập khẩu các sản phẩm này. Về nguyên tắc, các khoản phí liên quan đến việc mua các chứng chỉ EU CBAM sẽ được điều chỉnh, dựa trên bất kỳ giá các-bon nào đã trả tại quốc gia nơi hàng hóa đó được sản xuất. Tuy nhiên, trên thực tế, giá các-bon thực tế đã trả sẽ dẫn đến việc giảm số lượng chứng chỉ cần phải nộp lại, thay vì giảm trực tiếp phí cho mỗi chứng chỉ CBAM của EU.

CCA có hai mục đích: thứ nhất, thiết lập một chương trình quản lý trong nước nhằm mục đích giảm lượng khí thải công nghiệp trong nước; và thứ hai, thực hiện một cơ chế biên giới áp dụng phí đối với các sản phẩm được nhập khẩu dựa trên hàm lượng khí nhà kính (GHG) tích hợp của chúng. Tương tự như CBAM của EU, CCA nhằm mục đích đảm bảo sự đối xử nhất quán giữa những nhà nhập khẩu sản phẩm thuộc phạm vi điều chỉnh với những nhà sản xuất trong nước của cùng một sản phẩm. Cốt lõi của CCA là một tiêu chuẩn hiệu suất, được xác định bởi các mức sàn (benchmark) cụ thể chỉ rõ lượng GHG phát thải trên một tấn sản phẩm được sản xuất. Các mức sàn này được điều chỉnh cho từng ngành trong số 20 ngành công nghiệp quốc gia thuộc phạm vi của CCA. Phí CCA (được gọi là giá các-bon) là 55 đô la cho mỗi tấn GHG trong năm đầu tiên. Mỗi năm sau đó, phí này được tăng theo chỉ số giá tiêu dùng cộng với 5%. Các mức sàn đối với ngành công nghiệp quốc gia sẽ giảm 2,5% mỗi năm từ năm 2026 đến năm 2029, và giảm 5% mỗi năm sau đó cho đến khi đạt mức bằng không. Tương tự như CBAM, các nhà sản xuất trong nước bị tính phí ở cấp cơ sở sản xuất, trong khi các nhà nhập khẩu bị tính phí cho từng sản phẩm. Tuy nhiên, CCA cũng cho phép các nhà sản xuất trong nước có thể kiến nghị cường độ GHG của họ dựa trên sản phẩm thay vì cơ sở sản xuất.

FPFA sử dụng một cấu trúc phí tương đối khác biệt. Dự luật này đề ra"phí biến đổi" như một phần trong hệ thống phí của mình. Mỗi sản phẩm thuộc phạm vi áp dụng sẽ có một mức phí cụ thể. Có tổng cộng 03 bậc khác nhau được xác định đối với các sản phẩm đó. Mỗi bậc bao gồm nhiều phân khúc sản phẩm. Phí giá trị (ad valorem fees) được thiết kế để đạt được các mục tiêu cụ thể. Trong sáu năm đầu sau khi triển khai, các sản phẩm có mức độ khí nhà kính (GHG) trung bình vượt quá 50% sản lượng trung bình của Hoa Kỳ sẽ bị áp phí giá trị. Các khoản phí này được đặt ở mức đảm bảo hàng hóa nhập khẩu cũng thuộc phạm vi điều chỉnh. Mục tiêu là thu hẹp sự khác biệt về mức độ GHG trung bình giữa hàng hóa do Hoa Kỳ sản xuất và hàng hóa nhập khẩu xuống không quá 50%. Các sản phẩm có mức độ GHG trung bình lớn hơn 25% nhưng nhỏ hơn 50% sản lượng trung bình của Hoa Kỳ sẽ bị áp phí giá trị, và mức phí này sẽ khiến cho dòng chảy thương mại của mặt hàng đó bị điều chỉnh sao cho sự chênh lệch về cường độ GHG trung bình không lớn hơn 25%. Tương tự, các sản phẩm có mức độ GHG trung bình không lớn hơn 25% sản lượng trung bình của Hoa Kỳ sẽ bị áp phí giá trị ở mức đủ để khiến cho dòng chảy thương mại của mặt hàng đó bị điều chỉnh sao cho sự chênh lệch về cường độ GHG trung bình không lớn hơn 10%. Trong giai đoạn sáu năm tiếp theo (Giai đoạn 2 và 3) trở đi, các khoản phí giá trị được điều chỉnh để tiếp tục giảm mức độ GHG của các sản phẩm nhập khẩu trong dòng chảy thương mại của Hoa Kỳ.

Về những khác biệt khác, có thể thấy rằng CBAM tạo ra gánh nặng về hành chính. Việc triển khai CBAM yêu cầu hệ thống giám sát và xác minh mạnh mẽ để theo dõi lượng khí thải liên quan đến sản phẩm nhập khẩu.

Cường độ GHG là một yếu tố quan trọng của bất kỳ BAM nào. Cường độ GHG liên quan đến lượng khí thải trong quá trình sản xuất, vận chuyển và sử dụng một sản phẩm. Những nhà sản xuất hàng hóa thuộc phạm vi điều chỉnh rất quan tâm đến việc cung cấp dữ liệu GHG chính xác. Thông tin này giúp họ điều hướng các yêu cầu của BAMs và có thể tránh các khoản phí hoặc khoản phạt cao hơn. Ngoài ra phát sinh một số khó khăn vì các BAM khác nhau không có cùng một khung tiêu chuẩn để tính toán lượng GHG. Mỗi quốc gia hoặc khu vực có thể có phương pháp, chỉ số và ngưỡng riêng của mình. Sự thiếu hài hòa này đặt thêm gánh nặng cho những nhà sản xuất phải thích nghi với các quy định khác nhau. Hiện tại, chưa có khuôn khổ nào mà ở đó cộng đồng kinh doanh có thể hài hoà các điểm khác biệt giữa các BAMs. Theo đó, để các doanh nghiệp có thể có thông tin nhất quán về các BAMs, sẽ cần thống nhất định nghĩa chung cũng như các quy trình, thủ tục có liên quan.

Về một số điểm khác biệt khác, CCA khuyến khích sự minh bạch trong chuỗi cung ứng, nhằm đo lường và báo cáo chính xác khối lượng các-bon được tích hợp. Việc này có thể tạo động lực đổi mới sáng tạo, cũng như áp dụng các thông lệ các-bon thấp. Trong khi đó, việc phân loại thành sản phẩm trong FPFA sẽ cho phép xử lý vấn đề một cách chặt chẽ, nhưng cũng đồng thời tạo ra gánh nặng về chi phí đối với các sản phẩm khác nhau./.

Nguồn: Vụ Chính sách thương mại đa biên


Bài viết liên quan