DG SANTE cũng phân loại các cảnh báo theo loại cảnh báo (báo động; từ chối biên giới; thông tin cần chú ý; thông tin để theo dõi); theo loại sản phẩm (thuỷ sản và sản phẩm thuỷ sản; rau, củ, quả; thịt gia cầm và sản phẩm thịt gia cầm…); theo mối nguy (tồn dư thuốc trừ sâu; kim loại nặng, độc tố nấm mốc…). Theo đó, EU đề nghị Việt Nam cần thực hiện những nỗ lực kiểm tra an toàn thực phẩm trước khi xuất khẩu để giảm số lượng sản phẩm không phù hợp quy định của EU. Việt Nam cần tăng cường quản lý các vấn đề liên quan đến sử dụng trái phép thuốc kháng sinh trong nuôi tôm; dư lượng thuốc trừ sâu trong thực vật và sản phẩm thực vật (cụ thể là rau quả, thảo mộc và gia vị); sản phẩm thủy sản bị ô nhiễm kim loại nặng ở mức độ cao; sản phẩm có mức độ nhiễm vi sinh vật gây bệnh cao; sử dụng trái phép hoặc không khai báo chất phụ gia trong sản phẩm thủy sản.
Các mặt hàng nông sản thực phẩm và thủy sản của Việt Nam xuất khẩu sang EU có nguy cơ bị tăng tần suất kiểm tra biên giới theo quy định của EU nếu không có giải pháp kịp thời, cụ thể. Nguyên nhân chính của việc sản phẩm của Việt Nam bị tăng nguy cơ bao gồm: xu thế các quốc gia/vùng lãnh thổ gia tăng các biện pháp vệ sinh an toàn thực phẩm và kiểm dịch động thực vật (SPS) đối với nông sản thực phẩm và thủy sản nhập khẩu; xu thế sử dụng các sản phẩm an toàn, đảm bảo truy xuất nguồn gốc, sản phẩm khai thác hợp lý, sản phẩm hữu cơ, sản phẩm giảm phát thải, sản phẩm dựa trên giá trị, sản phẩm xanh...
Đối với sản xuất trong nước, nguyên nhân từ vùng trồng (sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, phân bón không đúng quy định, vượt mức dư lượng thuốc bảo vệ thực vật cho phép, kiểm soát sinh vật gây hại, kiểm soát các nguồn tác động, chưa tuân thủ các quy định của nhà nhập khẩu vì mức MRL đối với mỗi hoạt chất của mỗi nước là khác nhau...
Đối với cơ sở đóng gói, sơ chế, chế biến, thì nguyên nhân chủ yếu đến từ quy trình đóng gói, sơ chế, chế biến, kiểm tra nguyên liệu đầu vào, quá trình tuân thủ quy trình HACPP, việc tuân thủ các biện pháp SPS về phụ gia thực phẩm, an toàn thực phẩm đối với bao bì sản phẩm...
Do đó, các bên cần đưa ra các giải pháp bao gồm: hành động của vùng trồng vùng nuôi, hành động của doanh nghiệp, cơ sở đóng gói, sơ chế, chế biến, hành động của các hiệp hội, ngành hàng và hành động của cơ quan quản lý trung ương và cơ quan quản lý địa phương. Trong thời gian tới, cần có sự nỗ lực phối hợp giữa các cơ quan ban ngành địa phương và trung ương cũng như các hiệp hội ngành hàng trong quá trình hỗ trợ doanh nghiệp liên quan đến hoạt động đáp ứng các yêu cầu về an toàn thực phẩm, an toàn dịch bệnh, tuân thủ quy định của các thị trường, đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại, quảng bá sản phẩm...
Việc nông sản Việt Nam bị gia tăng cảnh báo trong Hệ thống RASFF là một trong những thách thức trong quá trình thực thi hiệu quả Hiệp định EVFTA, đặc biệt là Chương 6 về các biện pháp SPS. Chương này bao gồm các cam kết ràng buộc Việt Nam/EU trong việc ban hành và thực thi các biện pháp vệ sinh an toàn thực phẩm (các quy định, thủ tục nhằm mục tiêu bảo vệ sức khỏe, tính mạng con người, động thực vật) đối với hàng hóa, đặc biệt là thực phẩm và các sản phẩm nông nghiệp.
Việc phối hợp chặt chẽ và hỗ trợ lẫn nhau trong quá trình thực thi cam kết SPS của EVFTA là rất cấp thiết để thúc đẩy các hoạt động hợp tác thương mại hàng nông sản thực phẩm giữa Việt Nam và EU đi vào chiều sâu, thiết thực và hiệu quả hơn./.
(Nguồn: Vụ Chính sách thương mại đa biên tổng hợp)
