Ngay khi Hiệp định EVFTA có hiệu lực, 85,6% số mặt hàng, tương đương 70,3% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Liên hiệp châu Âu (EU) sẽ được hưởng thuế 0%. Sau bảy năm, 99,2% số mặt hàng sẽ được hưởng thuế 0%, tương đương 99,7% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam (các mặt hàng còn lại theo hạn ngạch thuế quan với thuế nhập khẩu trong hạn ngạch là 0%).
Sau 4 năm thực thi Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA), các doanh nghiệp đã bắt đầu thể hiện tính tích cực hơn và những lợi ích mà Hiệp định này đem lại cũng rõ rệt hơn.
Xét trên khía cạnh xuất khẩu, trong 3 tháng đầu năm 2024, kim ngạch xuất khẩu chung của Việt Nam sang Liên minh châu Âu (EU) đạt 12,22 tỷ USD, trong đó kim ngạch xuất khẩu tính theo C/O đạt 4,19 tỷ USD (tăng 9,48% so với năm 2023), với tỷ lệ tận dụng C/O ưu đãi đạt 34,31%.
Mặt hàng xuất khẩu nhiều nhất của Việt Nam sang EU (tính theo việc tận dụng C/O ưu đãi) là giày dép các loại (khoảng 1,18 tỷ USD, tăng 10,28% so với cùng kỳ), chất dẻo nguyên liệu và các sản phẩm chất dẻo (khoảng 296,11 triệu USD, tăng 8,31%), hàng dệt may (khoảng 271,29 triệu USD, tăng 34,18%), máy móc, thiết bị, dụng cụ và phụ tùng khác (khoảng 265,92 triệu USD, giảm 27,03%), sắt thép các loại và các sản phẩm từ sắt thép (khoảng 236,39 triệu USD, tăng 0,31%), túi xách, ví, va li, mũ và ô dù (khoảng 204,93 triệu USD, giảm 15,57%), hàng thủy sản (khoảng 165,47 triệu USD, giảm 11,83%).
Xét trên khía cạnh thị trường xuất khẩu của Việt Nam sang các nước thành viên EU tính theo kim ngạch xuất khẩu của C/O ưu đãi thì xuất khẩu sang Hà Lan đạt khoảng 740,54 triệu USD (tăng 26,20% so với cùng kỳ), xuất khẩu sang Ý đạt 684,47 triệu USD (tăng 67,71%), xuất khẩu sang Đức đạt khoảng 606,24 triệu USD (giảm 8,38%), xuất khẩu sang Pháp đạt khoảng 399,61 triệu USD (giảm 3,88%), xuất khẩu sang Tây Ban Nha đạt khoảng 354,11 triệu USD (tăng 26,35%).
Xét trên khía cạnh kim ngạch xuất khẩu tính theo C/O ưu đãi so với tổng kim ngạch xuất khẩu nói chung, tỷ lệ tận dụng C/O ưu đãi khi xuất khẩu sang Hà Lan đạt khoảng 25,18%, xuất khẩu sang Ý đạt khoảng 51,42%, xuất khẩu sang Đức đạt khoảng 31,86%, xuất khẩu sang Pháp đạt khoảng 49,74%, xuất khẩu sang Tây Ban Nha đạt khoảng 33,62%.
Xét trên khía cạnh kim ngạch xuất khẩu của một số mặt hàng tính theo C/O ưu đãi so với tổng kim ngạch xuất khẩu nói chung thì hàng dệt may đạt khoảng 34,15%, máy móc, thiết bị, dụng cụ và phụ tùng khác đạt khoảng 17,09%, hàng thủy sản đạt khoảng 86,63%.
Như vậy có thể thấy một số mặt hàng như giày dép các loại, chất dẻo nguyên liệu và các sản phẩm chất dẻo, hàng dệt may, máy móc, thiết bị, dụng cụ và phụ tùng khác, sắt thép các loại và các sản phẩm từ sắt thép, túi xách, ví, va li, mũ và ô dù, hàng thủy sản vẫn là những mặt hàng có lợi thế xuất khẩu của Việt Nam sang EU. Các thị trường xuất khẩu của Việt Nam sang EU vẫn bao gồm một số nước như Hà Lan, Ý, Đức, Pháp, Tây Ban Nha.
Để thúc đẩy tăng trưởng những mặt hàng có thế mạnh, ngoài việc doanh nghiệp Việt Nam cần phải nắm bắt được lộ trình cắt giảm thuế quan của EU giành cho Việt Nam, quy tắc xuất xứ trong Hiệp định mà còn phải nắm bắt các quy định về các quy định phi thuế quan như SPS (kiểm dịch động, thực vật), TBT (các tiêu chuẩn kỹ thuật, chất lượng, dán nhãn), nhu cầu, thị hiếu của khách hàng, … cũng như tăng cường tham gia các chương trình xúc tiến thương mại của các cơ quan quản lý nhà nước tổ chức.
Những hiệp định thương mại tự do thế hệ mới thì phạm vi không chỉ dừng ở các cam kết mở của thị trường hàng hóa. Hiệp định EVFTA điều chỉnh rất nhiều vấn đề khác như mở cửa thị trường dịch vụ, đầu tư và mua sắm của các cơ quan Chính phủ; thương mại điện tử; quyền sở hữu trí tuệ; doanh nghiệp nhà nước và phát triển bền vững.
Các quy định dựa trên các tiêu chuẩn quốc tế trong nhiều lĩnh vực về kinh doanh, thương mại, đầu tư, đấu thầu, sở hữu trí tuệ,… chính là cơ sở để Việt Nam tiến hành cải cách, cải thiện môi trường đầu tư, chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại, hiệu quả, đối đầu thành công với các thách thức trong giai đoạn nền sản xuất thế giới đang đứng trước các thay đổi như vũ bão của cách mạng công nghiệp 4.0.
Nguồn: Cục Xuất nhập khẩu - Bộ Công Thương
