Sau 4 năm thực thi Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU (Hiệp định EVFTA), Hiệp định thương mại tự do này đã góp phần đáng kể vào cải thiện tăng trưởng thương mại hàng hóa giữa Việt Nam với Liên minh châu Âu (EU). EVFTA đã phát huy vai trò thúc đẩy cải cách thể chế phù hợp với yêu cầu và bối cảnh phát triển mới.
Các lĩnh vực như thương mại, đầu tư, quyền sở hữu trí tuệ, phát triển bền vững, dịch vụ tài chính, mua sắm công đều có nhiều điều chỉnh về các thể chế, văn bản quy phạm pháp luật, hệ thống pháp luật Việt Nam phần lớn đã tương thích với các cam kết trong EVFTA.

Xét trên khía cạnh xuất khẩu, trong 6 tháng đầu năm 2024, kim ngạch xuất khẩu chung của Việt Nam sang Liên minh châu Âu (EU) đạt 24,69 tỷ USD, trong đó kim ngạch xuất khẩu tính theo C/O đạt 8,75 tỷ USD (tăng 10,21% so với cùng kỳ). Tỷ lệ tận dụng C/O ưu đãi trong nửa đầu năm 2024 đạt khoảng 35,45%.
Mặt hàng xuất khẩu nhiều nhất của Việt Nam sang EU (tính theo việc tận dụng C/O ưu đãi) là giày dép các loại (khoảng 2,67 tỷ USD, tăng 6,75% so với cùng kỳ), chất dẻo nguyên liệu và các sản phẩm chất dẻo (khoảng 638,47 triệu USD, tăng 25,21%), hàng dệt may (khoảng 604,51 triệu USD, tăng 24,98%), máy móc, thiết bị, dụng cụ và phụ tùng khác (khoảng 554,59 triệu USD, giảm 7,56%), sắt thép các loại và các sản phẩm từ sắt thép (khoảng 465,41 triệu USD, tăng 1,67%), túi xách, ví, va li, mũ và ô dù (khoảng 454,13 triệu USD, giảm 8,01%), hàng thủy sản (khoảng 386,89 triệu USD, tăng 0,61%).
Xét trên khía cạnh thị trường xuất khẩu của Việt Nam sang các nước thành viên EU tính theo kim ngạch xuất khẩu của C/O ưu đãi thì trong nửa năm đầu năm 2024, xuất khẩu sang Hà Lan đạt khoảng 1,61 tỷ USD (tăng 29,64% so với cùng kỳ), xuất khẩu sang Ý đạt 1,13 tỷ USD (tăng 29,86%), xuất khẩu sang Đức đạt khoảng 1,25 tỷ USD (giảm 8,38%), xuất khẩu sang Pháp đạt khoảng 834,52 triệu USD (tăng 0,55%), xuất khẩu sang Tây Ban Nha đạt khoảng 750,34 triệu USD (tăng 13,82%).
Xét trên khía cạnh kim ngạch xuất khẩu tính theo C/O ưu đãi so với tổng kim ngạch xuất khẩu nói chung, trong nửa đầu năm 2024, tỷ lệ tận dụng C/O ưu đãi khi xuất khẩu sang Hà Lan đạt khoảng 26,22%, xuất khẩu sang Ý đạt khoảng 44,66%, xuất khẩu sang Đức đạt khoảng 32,72%, xuất khẩu sang Pháp đạt khoảng 52,95%, xuất khẩu sang Tây Ban Nha đạt khoảng 38,17%.
Xét trên khía cạnh kim ngạch xuất khẩu của một số mặt hàng tính theo C/O ưu đãi so với tổng kim ngạch xuất khẩu nói chung thì hàng dệt may đạt khoảng 31,71%, máy móc, thiết bị, dụng cụ và phụ tùng khác đạt khoảng 17,75%, hàng thủy sản đạt khoảng 84,01%.
Như vậy, trong nửa đầu năm 2024, một số mặt hàng như giày dép các loại, chất dẻo nguyên liệu và các sản phẩm chất dẻo, hàng dệt may, máy móc, thiết bị, dụng cụ và phụ tùng khác, sắt thép các loại và các sản phẩm từ sắt thép, túi xách, ví, va li, mũ và ô dù, hàng thủy sản vẫn là những mặt hàng có lợi thế xuất khẩu của Việt Nam sang EU. Các thị trường xuất khẩu của Việt Nam sang EU vẫn bao gồm một số nước như Hà Lan, Ý, Đức, Pháp, Tây Ban Nha.
Những hiệp định thương mại tự do thế hệ mới thì phạm vi không chỉ dừng ở các cam kết mở của thị trường hàng hóa. Hiệp định EVFTA điều chỉnh rất nhiều vấn đề khác như mở cửa thị trường dịch vụ, đầu tư và mua sắm của các cơ quan Chính phủ; thương mại điện tử; quyền sở hữu trí tuệ; doanh nghiệp nhà nước và phát triển bền vững.
Quá trình thực hiện Hiệp định EVFTA, các lĩnh vực liên quan đển vận chuyển, nhóm ngành hàng có thế mạnh xuất khẩu sang EU, nhất là những ngành nghề thâm dụng nhiều lao động đã tạo nhiều công ăn việc làm như: Dệt may, da giày, logistics. Đồng thời, việc tăng trưởng xuất khẩu hàng hóa của các ngành nghề này đã gián tiếp cải thiện thu nhập cho người lao động. Đặc biệt, nếu những ngành nghề thâm dụng lao động phát triển thì lao động nữ sẽ có lợi thế hơn trong việc có việc làm ổn định, bền vững.
Để thúc đẩy tăng trưởng những mặt hàng có thế mạnh, ngoài việc doanh nghiệp Việt Nam cần phải nắm bắt được lộ trình cắt giảm thuế quan của EU giành cho Việt Nam, quy tắc xuất xứ trong Hiệp định mà còn phải nắm bắt các quy định về các quy định phi thuế quan như SPS (kiểm dịch động, thực vật), TBT (các tiêu chuẩn kỹ thuật, chất lượng, dán nhãn), nhu cầu, thị hiếu của khách hàng,…cũng như tăng cường tham gia các chương trình xúc tiến thương mại của các cơ quan quản lý nhà nước tổ chức.
Nguồn: Cục Xuất nhập khẩu - Bộ Công Thương
