...
Phân tích - Tổng hợp
Tổng hợp về xuất khẩu

Hệ thống quản lý thương mại chiến lược của Hoa Kỳ và tác động đến Việt Nam

Thứ Hai, 01/07/2024

Hệ thống quản lý thương mại hàng hóa chiến lược bao gồm các quy định pháp luật, thủ tục cấp phép và biện pháp đảm bảo thực thi, chế tài nhằm ngăn ngừa hàng hóa chiến lược rơi vào tay những đối tượng nguy hiểm. Để quản lý các mặt hàng này, doanh nghiệp phải xin giấy phép xuất khẩu và trong một số trường hợp, cần hạn chế quá cảnh/chuyển tải hay nhập khẩu hàng hóa lưỡng dụng để đảm bảo chúng không bị bán cho những đối tượng nguy hiểm.

Cơ quan quản lý nhà nước ở từng quốc gia sẽ thẩm định hồ sơ xin cấp phép xuất khẩu những hàng hóa nhạy cảm đó và đánh giá rủi ro hàng hóa rơi vào tay đối tượng nguy hiểm hoặc bị sử dụng vào mục đích trái phép.

Cơ quan quản lý có thể khai thác các nguồn thông tin mở và nguồn tin nghiệp vụ để đánh giá xem bên mua hoặc bên sử dụng hàng hóa lưỡng dụng có tiềm ẩn rủi ro (nguy cơ sử dụng hàng hóa vào mục đích quân sự trái phép) hoặc có dấu hiệu bất thường nào hay không. Các quốc gia tự phân tích rủi ro và có toàn quyền ra quyết định phê duyệt hoặc từ chối cấp phép xuất khẩu hàng hóa chiến lược.

Tác động hai mặt của cơ chế kiểm soát thương mại chiến lược

Việc khởi xướng xây dựng cơ chế kiểm soát thương mại chiến lược được Hoa Kỳ đặt ra đối với nhiều quốc gia đối tác, một mặt được xem là chính sách tạo ra lợi thế cạnh tranh, giúp các quốc gia này tiếp cận có chọn lọc tới các công nghệ và hàng hóa chiến lược, từ đó giúp tạo thuận lợi thương mại hàng hóa chiến lược có giá trị cao; nhưng mặt khác cũng là cơ chế nhằm kiềm tỏa, có thể tạo tác động tiêu cực đến khả năng nâng cao trình độ phát triển nếu quốc gia đó không đáp ứng được các yêu cầu đặt ra của cơ chế này, hoặc có sự chệch hướng trong quan hệ song phương với Hoa Kỳ.

Bên cạnh đó, việc buộc phải hợp tác chặt chẽ với Hoa Kỳ và các nước đồng minh trong việc triển khai cơ chế kiểm soát thương mại chiến lược sẽ dẫn tới khó xử trong quan hệ với Nga và Trung Quốc.

Thực tế hiện nay, hàng hóa thuộc danh mục hàng hóa bị kiểm soát quốc tế chỉ chiếm một phần nhỏ (khoảng <2% tổng thương mại toàn cầu) trong đa số các ngành công nghệ cao. Những hàng hóa này không bị cấm trao đổi thương mại mà chỉ bắt buộc phải có cấp phép. Đa số hồ sơ xin cấp phép thương mại hàng hóa lưỡng dụng (chẳng hạn tại EU, Hoa Kỳ và Nhật Bản) đều được phê duyệt và chỉ khoảng 1% hồ sơ xin cấp phép có khả năng bị từ chối.

Bên cạnh mục tiêu kiềm chế Nga và Trung Quốc như đã phân tích ở trên, Hoa Kỳ khởi xướng xây dựng hệ thống quản lý thương mại hàng hóa chiến lược còn bắt nguồn từ một số lý do cụ thể khác, bao gồm:

Xây dựng hạ tầng cho nền kinh tế thế kỷ 21

Khi tăng cường phát triển, sản xuất và thương mại hàng hóa có mức độ phức tạp cao, nền kinh tế có khả năng sẽ sản xuất, sử dụng hàng hóa chiến lược. Những hàng hóa chiến lược này cũng là công nghệ thúc đẩy tăng trưởng trong các ngành có giá trị cao như công nghệ thông tin và truyền thông, công nghệ robot, công nghệ sinh học tiên tiến, năng lượng nguyên tử, hệ thống tự động và trí tuệ nhân tạo (AI).

Các quy định pháp luật về quản lý thương mại hàng hóa chiến lược sẽ giúp đảm bảo sử dụng an toàn các hàng hóa nhạy cảm này. Đây là một phần trong hệ thống tạo thuận lợi thương mại của mỗi quốc gia và cũng là điều mà các nhà đầu tư tìm kiếm ở một môi trường kinh doanh thuận lợi.

Duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế và đa dạng hóa đầu tư nước ngoài

Theo các nhà sản xuất và cung ứng hàng hóa chiến lược (cả tầm quốc gia và doanh nghiệp), việc thiếu một cơ chế giám sát, quản lý và điều tiết hiệu quả hoạt động thương mại hàng hóa chiến lược có thể gây tổn hại lớn về lợi ích quốc gia trong chính sách đối ngoại và đầu tư.

Các công ty đa quốc gia lớn sẽ tránh những quốc gia được coi là tiềm ẩn rủi ro chuyển hướng hàng hóa chiến lược. Do đó các công ty này có xu hướng tìm kiếm quốc gia nào có hệ thống pháp luật hiệu quả để quản lý thương mại hàng hóa chiến lược trước khi xem xét bán công nghệ sản xuất, đầu vào hoặc đầu tư vốn để xây dựng nhà máy sản xuất hiện đại, cơ sở bảo dưỡng, sửa chữa, cơ sở nghiên cứu hoặc trung tâm phân phối cấp khu vực - những mảng đòi hỏi sử dụng, chế tạo và/hoặc cung ứng hàng hóa lưỡng dụng.

Một số quốc gia cũng đánh giá hệ thống quản lý thương mại hàng hóa chiến lược của thị trường tiếp nhận để xác định xem có đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế hay không. Nếu được đánh giá là rủi ro thấp, quốc gia đó sẽ được ưu đãi và áp dụng thủ tục cấp phép rút gọn. Kết quả đánh giá rủi ro thấp được cộng đồng doanh nghiệp coi là một chỉ báo về chuỗi cung ứng an toàn, từ đó giúp tăng cường thương mại hàng hóa công nghệ cao.

Nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực công nghệ cao đòi hỏi rằng chính phủ quốc gia điểm đến không chỉ bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ mà còn đảm bảo sản phẩm và công nghệ của họ không bị xuất khẩu hoặc chuyển giao trái phép.

Tăng cường an ninh quốc gia

Do việc quản lý kém hiệu quả hoạt động mua bán các thiết bị, công nghệ được sử dụng trong sản xuất vũ khí hủy diệt hàng loạt, vũ khí khủng bố có thể làm suy yếu an ninh quốc gia và đe dọa trật tự xã hội.

Vì vậy, thông qua giám sát và cấp phép xuất nhập khẩu và quá cảnh hàng hóa chiến lược, một quốc gia có thể hạn chế khả năng các nhóm đối tượng nguy hiểm tiếp cận và sử dụng vật tư, nguyên liệu nhạy cảm cũng như vũ khí hủy diệt hàng loạt. Việc thực thi hiệu quả hệ thống quản lý thương mại hàng hóa chiến lược sẽ giúp bảo vệ và quảng bá hình ảnh quốc gia như một môi trường thương mại an toàn. Hệ thống này cũng giúp tăng cường uy tín và hồ sơ năng lực hoạt động của doanh nghiệp trong nước.

Như vậy, có thể thấy việc một quốc gia buộc phải hợp tác chặt chẽ với Hoa Kỳ để triển khai cơ chế kiểm soát thương mại chiến lược là cơ sở để các quốc gia này tiếp cận được với những thiết bị, công nghệ, hàng hóa chiến lược và lưỡng dụng. Với tiềm lực kinh tế và công nghệ, các loại hàng hóa này vẫn tập trung chủ yếu tại Hoa Kỳ và các nước đồng minh thân cận. Đây trở thành áp lực lớn để đạt mục tiêu điều phối hài hòa nhu cầu phát triển trong nước với việc xử lý các mối quan hệ đa phương với các quốc gia khác nhau.

Tác động đối với Việt Nam

Hiện nay Việt Nam đang nằm trong danh sách hạn chế xuất khẩu D1 và D3 của Hoa Kỳ; trong đó danh sách D1 kiểm soát liên quan đến an ninh quốc gia và danh sách D3 liên quan đến nguy cơ vũ khí hóa học, sinh học. Danh sách này chủ yếu là các nước có quan hệ chính trị, thương mại bị Hoa Kỳ đánh giá là gần gũi với Nga, Trung Quốc và Bắc Triều Tiên.

Lòng tin chiến lược giữa Việt Nam và Hoa Kỳ đã được nâng lên đáng kể sau khi hai nước chính thức nâng cấp quan hệ lên mức Đối tác chiến lược toàn diện. Tuy nhiên, thực tế cho thấy Hoa Kỳ vẫn lo ngại chủ yếu việc Việt Nam không có cơ chế và không đủ khả năng kiểm soát đối với các sản phẩm thương mại chiến lược, từ đó phát sinh nguy cơ các công nghệ và sản phẩm này rơi vào bên thứ ba để sản xuất vũ khí chết người hoặc ăn cắp công nghệ. Các sản phẩm này là đặc thù và liên quan nhiều đến an ninh quốc phòng.

Trong khu vực Đông Nam Á, hiện Hoa Kỳ đã có hợp tác thương mại chiến lược với Indonesia và một số quốc gia trong khu vực, thể hiện rõ mong muốn thúc đẩy hợp tác thương mại chiến lược sâu rộng hơn với Việt Nam và coi đây là lĩnh vực quan trọng hàng đầu.

Mặc dù hiện tại, hàng hoá xuất khẩu từ Hoa Kỳ sang Việt Nam không bị tác động lớn bởi quy định hiện hành về kiểm soát thương mại chiến lược của Hoa Kỳ; nhưng khi Việt Nam đặt mục tiêu phát triển những ngành công nghệ cao, công nghệ tiên tiến như bán dẫn, chip, hàng không vũ trụ… thì việc chưa có cơ chế kiểm soát thương mại chiến lược hiệu quả sẽ trở thành rào cản cho chính các công ty Việt Nam khi muốn tiếp cận nguồn công nghệ cao từ Hoa Kỳ và các nước đồng minh.

Do đó, đây là vấn đề Việt Nam cần nghiên cứu, tham khảo kinh nghiệm của các quốc gia tương tự để đề xuất, xây dựng một cơ chế kiểm soát thương mại chiến lược phù hợp, đáp ứng đúng mục tiêu quản lý và phát triển quốc gia trong tương lai.

Nguồn: Vụ Thị trường châu Âu-châu Mỹ


Bài viết liên quan