Phòng vệ thương mại
Thông tin cảnh báo sớm

Cảnh báo sớm đối với mặt hàng tháp gió xuất khẩu vào thị trường EU

Thứ Tư, 30/10/2024

Sản xuất tháp điện gió có ý nghĩa kinh tế rất lớn đối với EU, với giá trị thị trường hàng năm khoảng 1 tỷ euro. Các tháp gió bằng thép do EU sản xuất cũng được lắp đặt trong các tua bin gió ở các nơi khác trên thế giới, vì trên toàn thế giới chỉ có một số ít quốc gia sản xuất tháp gió. Ngành này cũng tạo ra số lượng việc làm lớn tại EU trong bối cảnh kiểm soát tỷ lệ thất nghiệp ở mức thấp là mối quan tâm lớn của chính phủ các nước thành viên EU. Do đó, EU sẽ có xu hướng hỗ trợ sản xuất nội địa, bất chấp các ý kiến cho rằng biện pháp áp thuế nhập khẩu có thể ảnh hưởng đến tiến độ bổ sung công suất điện gió của các nước thành viên trong thời gian tới. Cục Phòng vệ thương mại (Bộ Công Thương), tiếp tục khuyến cáo các doanh nghiệp sản xuất nhóm hàng này khi xuất khẩu sang thị trường EU cần theo dõi sát tình hình, chuẩn bị tốt về hồ sơ, chứng từ, không tiếp tay cho các hành vi gian lận xuất xứ, lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại.

1. Tình hình nhập khẩu tháp điện gió vào EU từ thế giới và từ Việt Nam

1.1. Nhập khẩu vào EU và từ các thị trường chính

a. Nhóm mã HS 850231:

Theo số liệu của Trung tâm Thương mại quốc tế (ITC), trị giá nhập khẩu nhóm hàng tháp điện gió mã HS 850231 vào thị trường EU-27 từ tất cả các thị trường trên thế giới đã giảm sút mạnh trong năm 2021 sau khi đạt mức cao trong các năm 2019-2020.

Đến năm 2023, nhập khẩu tăng 16,2% so với năm 2022, lên mức 2,03 tỷ USD. Tuy nhiên, nhập khẩu lại sụt giảm trong năm 2024, với kết quả 9 tháng đầu năm chỉ đật 833 triệu USD, tương đương mức trung bình 92,5 triệu USD/tháng, thấp hơn nhiều so với mức trung bình 169,7 triệu USD/tháng của năm 2023.

Biểu đồ 1: Trị giá nhập khẩu mã HS 850231 vào EU-27 giai đoạn 2019-2024

(đvt: nghìn USD)

Nguồn: Tính toán từ số liệu của ITC

EU nhập khẩu nhóm hàng này từ nhiều thị trường, trong đó 2 thị trường ngoại khối dẫn đầu về trị giá là Ấn Độ, Trung Quốc.

Đáng chú ý, nhập khẩu Trung Quốc từ vị trí cao hơn hẳn so với Ấn Độ vào năm 2019, đã điều chỉnh giảm từ năm 2022, đặc biệt là sau khi bị áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại (chống bán phá giá) và đến năm 2023, thậm chí còn thấp hơn so với cả Ấn Độ.

Biểu đồ 2: Trị  giá nhập khẩu nhóm hàng mã HS 850231 vào EU-27 từ Ấn Độ và Trung Quốc  (đvt: nghìn USD)

Nguồn: Tính toán từ số liệu của ITC

b. Nhóm mã HS 730890:

Tính toán từ số liệu của ITC cho thấy trị giá nhập khẩu nhóm hàng mã HS 730890 vào EU-27 đã tăng trong 2 năm 2021 và 2022, sau khi sụt giảm trong năm 2020 vì dịch bệnh. Đến năm 2023, nhập khẩu điều chỉnh giảm nhẹ 4,7%, xuống còn 15,2 tỷ USD.  

Sang năm 2024 nhập khẩu nhóm hàng này có xu hướng tăng mạnh hơn, với trị giá 9 tháng đã đạt 12,3 tỷ USD, trung bình đạt 136,7 triệu USD/tháng, cao hơn so với mức trung bình 127 triệu USD/tháng của năm 2023.

Biểu đồ 3: Trị giá nhập khẩu mã HS 730890 vào EU-27 giai đoạn 2019-2024

(đvt: nghìn USD)

Nguồn: Tính toán từ số liệu của ITC

Trong số các thị trường ngoại khối, Trung Quốc và Vương quốc Anh hiện dẫn đầu về thị phần nhập khẩu nhóm hàng này vào EU-27. Đáng lưu ý là trong khi nhập khẩu nhóm hàng này từ Vương quốc Anh giảm trong năm 2022 và 2023 thì nhập khẩu từ Trung Quốc liên tục trong xu hướng tăng, thậm chí còn tăng mạnh hơn nữa trong năm 2024.

Biểu đồ 4: Trị  giá nhập khẩu nhóm hàng mã HS 730890 vào EU-27 từ Trung Quốc và Vương quốc Anh

(đvt: nghìn USD)

 

Nguồn: Tính toán từ số liệu của ITC

c. Nhóm mã HS 730820

Đối với mã HS 730820, trị giá nhập khẩu vào EU-27 giảm trong năm 2022, nhưng đến năm 2023 lại tăng 13,4%, đạt 1,655 tỷ USD.

Trong 9 tháng năm 2024 với trị giá nhập khẩu 1,38 tỷ USD, trung bình mỗi tháng đạt 153,5 triệu USD, cao hơn so với mức trung bình 137,9 triệu USD/tháng của năm 2023.

EU-27 nhập khẩu nhóm hàng này từ nhiều thị trường, trong đó về thị trường ngoại khối ở châu Á thì Trung Quốc và Ấn Độ dẫn đầu về trị giá trong năm 2023. Tuy nhiên, trong khi thị phần của nhập khẩu từ Ấn Độ đang gia tăng thì thị phần của Trung Quốc lại sụt giảm mạnh.

Nhập khẩu từ Việt Nam từng cao hơn cả Trung Quốc và Ấn Độ trong năm 2021 và 2022.

Biểu đồ 5: Trị giá nhập khẩu mã HS 730820 vào EU-27 giai đoạn 2019-2024

Nguồn: Tính toán từ số liệu của ITC

2. Nhập khẩu vào EU-27 từ Việt Nam và so sánh tương quan thị phần với các nhà cung ứng khác

a. Nhóm mã HS 850231:

Theo số liệu của Trung tâm Thương mại quốc tế (ITC), nhập khẩu nhóm hàng mã HS 850231 từ Việt Nam vào EU-27 là không đáng kể, chỉ đạt chưa tới 1 triệu USD/năm, tức là chỉ chiếm khoảng 0,5% thị phần tổng trị giá nhập khẩu nhóm hàng này vào EU.

b. Nhóm mã HS 730890:

Thống kê của ITC cho thấy nhập khẩu nhóm hàng mã HS 730890 từ Việt Nam vào EU-27 bắt đầu phục hồi từ năm 2021 sau dịch bệnh, tăng mạnh trong năm 2022, điều chỉnh giảm trong năm 2023 vì lạm phát.

Đến 9 tháng năm 2024, trị giá nhập khẩu đã 200,5 triệu USD, với mức trung bình 222,8 triệu USD/tháng, cao hơn hẳn so với mức trung bình 170 triệu USD/tháng của năm 2023.

Biểu đồ 6: Tổng trị giá nhập khẩu mã HS 730890 từ Việt Nam vào EU-27 (đvt: nghìn USD)

Nguồn: Tính toán từ số liệu của ITC

          Xét về thị phần:

Tại châu Á, Trung Quốc và Việt Nam là hai nhà xuất khẩu lớn nhất nhóm hàng này vào EU, mặc dù thị phần của hàng nhập khẩu từ Việt Nam thấp hơn nhiều với Trung Quốc.

Thị phần của hàng Việt Nam trong 9 tháng năm 2024 là 1,63% tổng trị giá nhập khẩu nhóm hàng này vào EU-27, đã tăng nhiều so với mức 0,08% vào năm 2019. Thị phần của Trung Quốc trong giai đoạn này cũng tăng từ mức 5,76% lên 13,29%, trái ngược với sự sụt giảm thị phần của Vương quốc Anh, nhất là sau khi Anh rời EU.

Biểu đồ 7: So sánh biến động thị phần của nhóm hàng  HS 730890 nhập khẩu từ Việt Nam với các quốc gia cung ứng lớn vào EU-27

Nguồn: Tính toán từ số liệu của ITC

c. Nhóm mã HS 730820 (Tháp và cột lưới, bằng sắt hoặc thép):

Số liệu từ ITC cho thấy năm 2021, nhập khẩu nhóm hàng mã HS 730820 từ Việt Nam vào EU đạt 205 triệu USD, chiếm thị phần tới 13,34%, cao hơn hẳn so với thị phần của Trung Quốc và Ấn Độ. Đến năm 2022, trị giá nhập khẩu giảm xuống, thị phần của Việt Nam giảm xuống còn hơn 9%, cùng với sự suy giảm của thị phần hàng nhập khẩu từ Trung Quốc và ngược với xu hướng thị phần của Ấn Độ.

2. Khuyến nghị và Cảnh báo

Biện pháp phòng vệ thương mại EU áp dụng:

Tháng 12/2021, Ủy ban châu Âu đã công bố áp dụng thuế chống bán phá giá đối với việc nhập khẩu tháp gió thép từ Trung Quốc. Mức thuế dao động từ 7,2% đến 19,2%.

Các biện pháp này nhằm bảo vệ và bảo vệ các nhà sản xuất và công nhân EU khỏi các hoạt động bóp méo thương mại gây tổn hại đến ngành sản xuất tháp điện gió của EU.

Cuộc điều tra đã xác nhận rằng việc nhập khẩu tháp gió thép từ Trung Quốc với giá trị hàng năm là 300 triệu euro được thực hiện với hành vi phá giá, gây thiệt hại kinh tế cho các nhà sản xuất EU.

Việc áp dụng thuế chống bán phá giá là cần thiết để đảm bảo các điều kiện cạnh tranh công bằng cho việc bán tháp gió thép trên thị trường EU. Biện pháp thương mại này cho phép các nhà sản xuất tua bin gió tại EU và các dự án điện gió của họ có thể lựa chọn giữa cả tháp gió thép do EU sản xuất và sản phẩm nhập khẩu với mức giá cạnh tranh và công bằng. Các biện pháp chống bán phá giá này ước tính giúp bảo vệ chuỗi giá trị thép và hơn 3.600 việc làm trực tiếp tại EU.

Khuyến cáo:

Sản xuất tháp điện gió có ý nghĩa kinh tế rất lớn đối với EU, với giá trị thị trường hàng năm khoảng 1 tỷ euro. Các tháp gió bằng thép do EU sản xuất cũng được lắp đặt trong các tua bin gió ở các nơi khác trên thế giới, vì trên toàn thế giới chỉ có một số ít quốc gia sản xuất tháp gió. Ngành này cũng tạo ra số lượng việc làm lớn tại EU trong bối cảnh kiểm soát tỷ lệ thất nghiệp ở mức thấp là mối quan tâm lớn của chính phủ các nước thành viên EU. Do đó, EU sẽ có xu hướng hỗ trợ sản xuất nội địa, bất chấp các ý kiến cho rằng biện pháp áp thuế nhập khẩu có thể ảnh hưởng đến tiến độ bổ sung công suất điện gió của các nước thành viên trong thời gian tới.

EU đã áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại với hàng nhập khẩu từ Trung Quốc và do đó có thể tăng cường giám sát để tránh nguy cơ hàng nhập khẩu từ các nước khác gian lận xuất xứ để lẩn tránh biện pháp chống bán phá giá đã áp đặt.

Trong khi đó, ở một thị trường quan trọng khác, nhóm hàng tháp điện gió của Việt Nam cũng đã bị Hoa Kỳ điều tra chống bán phá giá năm 2012 và áp thuế vào năm 2013, mức thuế từ 51,54% - 58,54%. Ngày 12/8/2024, Bộ Thương mại Hoa Kỳ (DOC) đã đăng công báo kết luận cuối cùng vụ việc rà soát hoàng hôn lần thứ hai lệnh áp thuế chống bán phá giá với tháp gió có mã HS: 7308.20.0020 và 8502.31.0000 nhập khẩu từ Việt Nam. Tại kết luận này, DOC cho rằng việc ngừng áp thuế chống bán phá giá đối với tháp gió nhập khẩu từ Việt Nam có khả năng dẫn đến việc tiếp tục hoặc tái diễn hành vi bán phá giá với biên độ phá giá bình quân gia quyền lên đến 58,24%.

Với quan ngại hàng hóa từ các nước (ví dụ Việt Nam) không thuận lợi tại thị trường Hoa Kỳ sẽ chuyển hướng vào EU, các biện pháp giám sát từ phía EU sẽ chặt chẽ hơn. Cục Phòng vệ thương mại (Bộ Công Thương), tiếp tục khuyến cáo các doanh nghiệp sản xuất nhóm hàng này khi xuất khẩu sang thị trường EU cần theo dõi sát tình hình, chuẩn bị tốt về hồ sơ, chứng từ, không tiếp tay cho các hành vi gian lận xuất xứ, lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại.

                                 Nguồn: Cục Phòng vệ thương mại – Bộ Công Thương


[1] https://www.consilium.europa.eu/media/1kyk0wjm/2024_685_art_windpower_web.pdf


Bài viết liên quan