Được khởi động từ ngày 2 tháng 12 năm 2015, trải qua 8 năm đàm phán với tổng cộng 12 phiên đàm phán chính thức, Hiệp định VIFTA đã được kết thúc đàm phán vào ngày 2 tháng 4 năm 2023. Trên cơ sở Nghị quyết số 110/NQ-CP ngày 21 tháng 7 năm 2023 của Chính phủ và ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên đã ký Hiệp định này với đại diện được ủy quyền của I-xra-en vào ngày 25 tháng 7 năm 2023 tại I-xra-en.
Đối với chương đầu tư, Hiệp định VIFTA bao gồm các cam kết cơ bản giống như các FTA khác mà Việt Nam tham gia bao gồm các nghĩa vụ Đối xử quốc gia (NT), Đối xử Tối huệ quốc (MFN) và Yêu cầu thực hiện (PR) v.v.
Trong đó, cần phải hiểu các cam kết về tự do hoá đầu tư về bản chất bao gồm các nghĩa vụ gồm: nghĩa vụ Đối xử quốc gia (NT), Đối xử Tối huệ quốc (MFN), và Yêu cầu thực hiện (PR), Quản lý cấp cao và Hội đồng quản trị (SMBD). Trong khi đó, ở góc độ tổng quan, Hiệp định VIFTA là một hiệp định thương mại tự do (FTA) có cam kết ở mức độ trung bình, tức là mức độ cao hơn so với WTO và một số FTA truyền thống khác mà Việt Nam tham gia, tuy nhiên, so với FTA thế hệ mới như Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EVFTA) và Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ai-len (UKVFTA).
1. Về nghĩa vụ đối xử quốc gia
Khoản 9.4 Hiệp định quy định:
Mỗi Bên sẽ dành cho nhà đầu tư của Bên khác đối xử không kém thuận lợi hơn sự đối xử mà Bên đó dành cho nhà đầu tư của mình, trong hoàn cảnh tương tự, đối với việc thành lập, mua lại, mở rộng, quản lý, duy trì, sử dụng, thụ hưởng hoặc định đoạt các khoản đầu tư trên lãnh thổ của mình.
Mỗi Bên sẽ dành cho khoản đầu tư được bảo hộ theo Hiệp định này đối xử không kém thuận lợi hơn sự đối xử mà Bên đó dành cho khoản đầu tư của nhà đầu tư của mình trên lãnh thổ nước mình, trong hoàn cảnh tương tự, đối với việc thành lập, mua lại, mở rộng, quản lý, duy trì, sử dụng, thụ hưởng hoặc định đoạt các khoản đầu tư trên lãnh thổ của mình.
Có thể thấy cách tiếp cận này giống với cách tiếp cận của Hiệp định CPTPP khi Hiệp định CPTPP cũng sử dụng cách tiếp cận là “trong hoàn cảnh tương tự”. Đây là cách tiếp cận rộng hơn so với Hiệp định GATS trong WTO hay một số FTA khác theo phương pháp truyền thống khi sử dụng “dịch vụ và nhà cung cấp dịch vụ tương tự”.
2. Về nghĩa vụ đối xử tối huệ quốc
Điều 9.5 Hiệp định quy định:
Mỗi Bên sẽ dành cho nhà đầu tư của Bên khác đối xử không kém thuận lợi hơn sự đối xử mà Bên đó dành cho nhà đầu tư của bên không phải là Bên ký kết Hiệp định, trong điều kiện tương tự, đối với việc thành lập, mua lại, mở rộng, quản lý, duy trì, sử dụng, thụ hưởng hoặc định đoạt các khoản đầu tư trên lãnh thổ của mình.
Mỗi Bên sẽ dành cho khoản đầu tư được bảo hộ theo Hiệp định này đối xử không kém thuận lợi hơn sự đối xử mà Bên đó dành cho khoản đầu tư của bên không phải là Bên ký kết Hiệp định trên lãnh thổ của mình, trong điều kiện tương tự, đối với việc thành lập, mua lại, mở rộng, quản lý, duy trì, sử dụng, thụ hưởng hoặc định đoạt các khoản đầu tư trên lãnh thổ của mình.
Trong đó, quy định trong điều này không bao gồm các định nghĩa hay bất kì thủ tục hoặc cơ chế giải quyết tranh chấp giữa nhà nước và nhà đầu tư, bao gồm các cơ chế, thủ tục tương tự quy định tại Mục D (Giải quyết tranh chấp giữa nhà nước và nhà đầu tư).
Có thể thấy cách tiếp cận này giống với cách tiếp cận của Hiệp định CPTPP khi Hiệp định CPTPP cũng sử dụng cách tiếp cận là “trong hoàn cảnh tương tự”. Đây là cách tiếp cận rộng hơn so với Hiệp định GATS trong WTO hay một số FTA khác theo phương pháp truyền thống khi sử dụng “dịch vụ và nhà cung cấp dịch vụ tương tự”.
3. Về nghĩa vụ yêu cầu thực hiện
Điều 9.6 quy định không Bên nào có thể, liên quan đến việc thành lập, mua lại, mở rộng, quản lý, duy trì, sử dụng, thụ hưởng hoặc định đoạt các khoản đầu tư trên lãnh thổ của mình của nhà đầu tư thuộc Bên khác, áp đặt hoặc thực thi bất cứ yêu cầu nào, hoặc thực thi bất cứ cam kết hay bảo đảm nào:
(a) về xuất khẩu một mức độ hoặc tỷ lệ nhất định hàng hoá hoặc dịch vụ;
(b) về đạt mức độ hoặc tỷ lệ nhất định hàm lượng nội địa;
(c) về mua, sử dụng, hoặc dành ưu đãi đối với hàng hoá sản xuất hoặc dịch vụ sản xuất tại lãnh thổ của mình, hoặc mua hàng hoá từ doanh nghiệp, thể nhân trên lãnh thổ của mình;
(d) ràng buộc bằng bất kỳ cách thức nào số lượng hoặc giá trị nhập khẩu với số lượng hay giá trị xuất khẩu hoặc nguồn thu ngoại tệ gắn với khoản đầu tư đó;
(e) hạn chế việc bán hàng hoá hoặc dịch vụ trên lãnh thổ của mình mà khoản đầu tư đó sản xuất hoặc cung cấp thông qua việc ràng buộc bằng bất kỳ cách thức nào việc bán hàng hóa hoặc dịch vụ với số lượng hay giá trị xuất khẩu hoặc nguồn thu ngoại tệ từ khoản đầu tư đó;
(f) về chuyển giao công nghệ, quy trình sản xuất, hay kiến thức độc quyền khác cho một thể nhân hoặc doanh nghiệp trên lãnh thổ của mình, ngoại trừ những hoạt động được thực hiện theo cách thức không trái với Hiệp định TRIPS.
Cam kết về yêu cầu thực hiện trong Hiệp định VIFTA có thể nói là gần tương đồng với cam kết về yêu cầu thực hiện trong các FTA khác như CPTPP hay EVFTA.
4. Về nghĩa vụ quản lý cấp cao và hội đồng quản trị
Không Bên nào có thể yêu cầu một doanh nghiệp của Bên đó, là khoản đầu tư được bảo hộ, phải bổ nhiệm thể nhân có quốc tịch nhất định vào vị trí quản lý cấp cao.
Tuy nhiên, một Bên có thể yêu cầu đa số hoặc ít hơn nhân sự của hội đồng quản trị, hoặc bất kỳ ủy ban nào thuộc hội đồng quản trị của doanh nghiệp của Bên đó là khoản đầu tư được bảo hộ, có quốc tịch của mình, hoặc thường trú tại lãnh thổ của mình, với điều kiện yêu cầu đó không ảnh hưởng đáng kể đến khả năng của nhà đầu tư thực hiện kiểm soát khoản đầu tư của mình.
5. Tác động đến Việt Nam
Việc Hiệp định VIFTA bao gồm các cam kết toàn diện về đầu tư, từ đối xử quốc gia, đối xử tối huệ quốc đến yêu cầu thực hiện và quản lý cấp cao, mang lại nhiều lợi ích tích cực cho Việt Nam. Những cam kết này góp phần nâng cao tính minh bạch, ổn định và dự đoán được của môi trường đầu tư, qua đó tạo niềm tin cho các nhà đầu tư nước ngoài. Nhờ đó, Việt Nam có cơ hội thu hút thêm các dòng vốn đầu tư chất lượng cao từ I-xra-en – quốc gia có thế mạnh về công nghệ, đổi mới sáng tạo và nông nghiệp thông minh. Đồng thời, việc tiếp cận các tiêu chuẩn và thông lệ quốc tế tiên tiến trong lĩnh vực đầu tư sẽ giúp Việt Nam hoàn thiện thể chế, nâng cao năng lực quản lý và thúc đẩy quá trình hội nhập sâu rộng hơn vào nền kinh tế toàn cầu.
Nguồn: Vụ Chính sách thương mại đa biên, Bộ Công Thương
