Tin tức

Tranh chấp giữa Nhật Bản và Canada trong khuôn khổ Hiệp định TRIMS liên quan đến Chương trình biểu giá điện hỗ trợ “Feed-in Tariff” áp dụng cho năng lượng tái tạo (DS412)

Thứ Tư, 26/11/2025

Hiệp định về Các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại (TRIMs) trong khuôn khổ Tổ chức thương mại thế giới (WTO) tập trung vào việc ngăn chặn các quốc gia thành viên áp dụng các biện pháp đầu tư có thể gây cản trở thương mại tự do và công bằng giữa các quốc gia. Mục đích của điều khoản nhằm điều chỉnh hành vi của các quốc gia thành viên, đồng thời giải thích cách thức các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại cần phải tuân thủ của WTO để thúc đẩy môi trường thương mại quốc tế minh bạch và không phân biệt đối xử. Dưới đây sẽ phân tích một vụ việc điển hình trong tranh chấp liên quan đến Hiệp định TRIMS giữa Nhật Bản (bên khởi kiện) và Canada (bên bị kiện) liên quan đến Chương trình “Feed-in Tariff” mà Canada triển khai.

1. Nội dung vụ tranh chấp

Nhật Bản đã khởi kiện Canada liên quan đến việc Chính quyền tỉnh Ontario của Canada triển khai Chương trình Biểu giá điện hỗ trợ “Feed-in Tariff” (sau đây gọi tắt là Chương trình FIT) nhằm thúc đẩy sản xuất năng lượng tái tạo bằng cách đảm bảo mức giá mua điện ưu đãi cho các nhà sản xuất năng lượng tái tạo. Tuy nhiên, để đủ điều kiện tham gia Chương trình FIT và nhận được giá mua điện ưu đãi, các nhà sản xuất phải tuân thủ yêu cầu về nội địa hóa (Local Content Requirement - LCR), tức là phải sử dụng một tỷ lệ nhất định các hàng hóa và dịch vụ được sản xuất tại Ontario.

Nhật Bản cho rằng yêu cầu nội địa hóa của Chương trình FIT vi phạm các quy định của WTO, cụ thể là Điều III GATT 1994, Điều 2.1 Hiệp định TRIMs và Điều 3.1(b) và 3.2 Hiệp định SCM. Vì vậy, Nhật Bản đề nghị tham vấn với Canada về một số biện pháp của Canada trong Chương trình FIT liên quan đến yêu cầu về hàm lượng nội địa.

1.1. Quan điểm của phía Nhật Bản

Thứ nhất, Nhật Bản cho rằng Chương trình FIT thuộc phạm vi của Hiệp định TRIMs bởi vì: (i) thông qua việc thực hiện các quy định về hàm lượng nội địa, Canada đã “khuyến khích đầu tư vào sản xuất năng lượng tái tạo và các thiết bị liên quan ở Ontario”; (ii) việc ưu tiên sử dụng sản phẩm nội địa hơn sản phẩm nhập khẩu có liên quan tới “thương mại hàng hóa”. Ngoài ra, Nhật Bản cho rằng các biện pháp bị khiếu nại đang vi phạm Điều 2.1 căn cứ theo Đoạn 1(a) Phụ lục của Hiệp định TRIMs, trong đó các biện pháp đầu tư thương mại được coi là không phù hợp với nghĩa vụ đối xử quốc gia theo quy định tại Điều III:4 của GATT 1994.

Thứ hai, Nhật Bản đưa ra quan điểm rằng Chương trình FIT đã vi phạm Điều III:4 của GATT 1994 do các yêu cầu trong chương trình đã ảnh hưởng tới việc mua bán, tiêu dùng nội bộ thiết bị phát điện sử dụng năng lượng tái tạo, tạo ra sự đối xử kém thuận lợi hơn so với các sản phẩm tương tự có xuất xứ Ontario. Nhật Bản đưa ra 4 lập luận chính, cụ thể: (i) Thiết bị phát điện sử dụng năng lượng tái tạo được sản xuất tại Ontario và nhập khẩu từ Nhật Bản là “các sản phẩm tương tự” vì chúng đang cạnh tranh trực tiếp trên thị trường và không tồn tại sự khác biệt đáng kể về tính chất vật lý, mục đích sử dụng cuối cùng, nhận thức của người tiêu dùng hay phân loại thuế quan (mã HS); (ii) để nhận được ưu đãi từ chương trình, các nhà sản xuất phải tuân thủ theo các yêu cầu về hàm lượng nội địa; (iii) việc mua bán và sử dụng thiết bị sản xuất năng lượng tái tạo trong nước cũng bị ảnh hưởng bởi những yêu cầu của Chương trình FIT, khuyến khích các nhà sản xuất sử dụng thiết bị nội địa của Ontario thay vì thiết bị nhập khẩu; (iv) các yêu cầu về hàm lượng nội địa trong chương trình tạo ra sự đối xử kém thuận lợi hơn cho các thiết bị sản xuất năng lượng tái tạo nhập khẩu so với các sản phẩm tương tự có nguồn gốc từ Ontario khi tác động tới điều kiện cạnh tranh và gây tổn hại tới những lợi thế vốn có của các sản phẩm nhập khẩu.

Đồng thời, Nhật Bản cho rằng Điều III:8(a) của GATT 1994 không được áp dụng với Chương trình FIT dựa trên ba lập luận chính: (i) Nhật Bản khẳng định rằng Chương trình FIT không được coi là “mua sắm của các cơ quan chính phủ”, (ii) Nhật Bản lập luận rằng chương trình này không được ký kết “cho các mục đích tiêu dùng của chính phủ” khi chính phủ Ontario không trực tiếp sử dụng, tiêu thụ điện được cung cấp theo các hợp đồng FIT; (iii) Nhật Bản lập luận rằng các Chương trình FIT được ký kết để “bán lại nhằm mục đích thương mại” vì điện được cung cấp theo các Chương trình FIT được đưa vào lưới truyền tải và được phân phối gần như ngay lập tức đến tay người tiêu dùng ở Ontario để sử dụng, chứ không phải để tiêu thụ bởi chính phủ Ontario.

1.2. Quan điểm của phía Canada

Canada lập luận rằng Chương trình FIT không vi phạm Điều III GATT 1994 vì các biện pháp và yêu cầu liên quan đến Chương trình FIT chủ yếu để đảm bảo cung cấp điện cho người tiêu dùng Ontario từ các nguồn sạch, không phải để bán lại nhằm mục đích thương mại hoặc để sử dụng trong sản xuất hàng hóa. Do đó, Canada cho rằng Chương trình FIT không vi phạm của Điều III của GATT 1994, dẫn tới không thể vi phạm Điều 2.1 của Hiệp định TRIMs. Để củng cố quan điểm rằng Chương trình FIT thuộc ngoại lệ được quy định tại Điều III:8(a) GATT 1994, Canada đưa ra ba lập luận chính:

(i) Canada khẳng định rằng Chương trình FIT nên được coi là các luật, quy định hay tiêu chuẩn liên quan đến việc quản lý mua điện. Theo Canada, Điều 25.35 của Đạo luật Điện lực năm 1998; Chỉ đạo của Bộ trưởng; và Chương trình FIT đều phù hợp với định nghĩa của Điều III:8(a) GATT 1994.

(ii) Canada khẳng định rằng việc mua điện được thực hiện bởi Cơ quan Điện lực Ontario (sau đây gọi tắt là OPA) - một cơ quan chính phủ. Theo Canada, “mua sắm” là hành động nhận được hàng hóa hoặc dịch vụ bằng việc thanh toán tiền hoặc trao đổi với giá trị tương đương. Điều này hỗ trợ quan điểm của Canada rằng Điều III:8(a) đang được hiểu ở đây là chính phủ đang mua điện tái tạo bằng việc OPA thanh toán để đổi lấy điện tái tạo được sản xuất và đưa vào lưới điện cũng như mua các sản phẩm phụ từ việc sản xuất điện tái tạo.

Ngoài ra, cơ quan này trả thuế bán hàng theo các Hợp đồng FIT, mà ở Ontario, thuế này do người mua hàng hóa và dịch vụ thanh toán

(iii) Canada cho rằng định nghĩa của “mua cho mục đích chính phủ” theo Điều III:8(a) GATT 1994 là việc mua sắm được thực hiện để phục vụ mục tiêu công. Canada trình bày rằng việc OPA không mua điện để “bán lại nhằm mục đích thương mại”, và không sử dụng điện tái tạo trong sản xuất hàng hóa nhằm bán thương mại. Điều này nhấn mạnh việc mua sắm điện tái tạo của OPA là để phục vụ các mục tiêu công cộng và chính sách của chính phủ do đó Canada khẳng định Chương trình FIT nằm trong ngoại lệ được quy định tại Điều III:8(a) GATT 1994.

1.3. Quan điểm của cơ quan giải quyết tranh chấp

Theo Điều 2.1 Hiệp định TRIMs, Ban hội thẩm cho rằng

Thứ nhất, việc mua sắm điện của Chính phủ Ontario theo Chương trình FIT được thực hiện để “bán lại nhằm mục đích thương mại” vì điện đã mua được đưa vào thương mại để cạnh tranh trực tiếp với các nhà bán lẻ điện tư nhân. Bên cạnh đó, Ban hội thẩm cũng nhận thấy rõ ràng Chính quyền Ontario và các chính quyền thành phố hưởng lợi từ việc bán lại điện. Do đó, Ban hội thẩm kết luận rằng Chương trình FIT của Canada đã được thực hiện để “bán lại nhằm mục đích thương mại” và không nằm trong ngoại lệ được quy định tại Điều III:8(a) GATT, do đó chúng phải tuân theo các nguyên tắc của Điều III:4 GATT 1994.

Thứ hai, khi xét về sự vi phạm của Chương trình FIT đối với Điều III:4 GATT, Ban hội thẩm nhận thấy rằng Chương trình FIT đang đi ngược lại với quy định tại điều khoản này. Bởi lẽ, Chương trình FIT đã yêu cầu các dự án đầu tư phải mua hoặc sử dụng các linh kiện, thiết bị liên quan đến năng lượng tái tạo có nguồn gốc từ Canada. Do đó, việc này được Ban hội thẩm cho rằng chính phủ Ontario đã đối xử thiết bị nhập khẩu kém phần thuận lợi hơn sự đãi ngộ dành cho sản phẩm tương tự có xuất xứ từ Ontario. Vì vậy, Ban hội thẩm đã kết luận rằng Chương trình FIT của Canada đã vi phạm Điều III:4 GATT.

Thứ ba, Ban hội thẩm đã nhận định rằng biện pháp bị kiện là các biện pháp nằm trong phạm vi Mục 1(a) của Danh mục minh họa và xét theo Điều 2.2 cùng phần bổ sung cho mục 1(a) của Danh mục minh họa, chúng không phù hợp với Điều III:4 GATT 1994 nên cũng không phù hợp với Điều 2.1 TRIMs. Từ đó, Ban hội thẩm kết luận rằng Chương trình FIT đồng thời vi phạm Điều 2.1 TRIMs và Điều III:4 GATT 1994

Nhìn chung, phán quyết của Ban hội thẩm trong vụ tranh chấp DS412 không chỉ tạo tiền lệ cho việc áp dụng và giải thích các quy định của WTO về các biện pháp đầu tư liên quan tới thương mại hàng hóa mà còn củng cố nguyên tắc đối xử quốc gia, đảm bảo rằng các biện pháp hỗ trợ không phân biệt đối xử hoặc tạo ra lợi thế không công bằng cho sản phẩm nhập khẩu so với sản phẩm nội địa.

2. Kinh nghiệm cho Việt Nam

Từ vụ tranh chấp giữa Nhật Bản và Canada liên quan đến Chương trình FIT, Việt Nam có thể rút ra nhiều kinh nghiệm quan trọng trong quá trình xây dựng và triển khai các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp. Trước hết, các biện pháp hỗ trợ cần được thiết kế một cách minh bạch, dựa trên nguyên tắc không phân biệt đối xử và không tạo lợi thế thương mại không công bằng giữa hàng hóa nhập khẩu và hàng hóa sản xuất trong nước.

Trong bối cảnh hiện nay, khi Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng với việc thực thi các FTA, những giải pháp mang tính bảo hộ sản xuất trong nước sẽ dễ bị các đối tác đặt câu hỏi. Vì vậy, việc hỗ trợ các doanh nghiệp cần tiến hành một cách khéo léo, ưu tiên các hình thức hỗ trợ gián tiếp như nâng cao năng lực, cải thiện môi trường kinh doanh, hỗ trợ đổi mới công nghệ hoặc phát triển hạ tầng nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế đồng thời tránh vi phạm các cam kết của Việt Nam trong WTO và các FTA./.

Nguồn: Vụ Chính sách thương mại đa biên, Bộ Công Thương


Bài viết liên quan