1. Đối với nhiệm vụ tuyên truyền phổ biến thông tin về các FTA
1.1. Đối với việc hiểu rõ các FTA của doanh nghiệp
Theo kết quả điều tra, tỷ lệ các doanh nghiệp hiểu rõ các FTA đã có cải thiện so với các năm trước đó. Trong số các FTA mà doanh nghiệp phản hồi, Hiệp định FTA giữa Việt Nam và Hàn Quốc (AKFTA) có nhiều doanh nghiệp hiểu rõ nhất với tỷ lệ 23,6%, tiếp đến là Hiệp định ASEAN và Trung Quốc (ACFTA) với tỷ lệ là 18%, Hiệp định EVFTA với tỷ lệ là 13,6%, Hiệp định CPTPP với tỷ lệ 11,3%, Hiệp định Đối tác Toàn diện khu vực (RCEP) với tỷ lệ 10,2%.
Trong số các doanh nghiệp điều tra, các doanh nghiệp FDI có tỷ lệ hiểu rõ các Hiệp định FTA cao nhất, tiếp đến là các doanh nghiệp Nhà nước và cuối cùng là các doanh nghiệp ngoài Nhà nước. Ví dụ, với Hiệp định CPTPP, tỷ lệ hiểu rõ với doanh nghiệp FDI, doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp ngoài Nhà nước tương ứng là 14,4%, 11,4% và 10,1%. Với Hiệp định EVFTA, tỷ lệ hiểu rõ tương ứng là 18%, 15,6% và 11,9%, với Hiệp định UKVFTA tỷ lệ hiểu rõ tương ứng là 11,8%, 9,1% và 7,4%, với Hiệp định RCEP tỷ lệ hiểu rõ tương ứng là 13,9%, 11,6% và 8,7%.
1.2. Đối với chất lượng cung cấp thông tin của cơ quan quản lý
Chất lượng cung cấp thông tin của cơ quan quản lý được đánh giá tích cực. Tỷ lệ doanh nghiệp đánh giá chất lượng cung cấp thông tin theo tiêu chí “đáp ứng một phần” của cơ quan Trung ương là 90,7% và cơ quan địa phương là 91,3%. Tuy nhiên, ở tiêu chí “đáp ứng hoàn toàn nhu cầu của doanh nghiệp” thì tỷ lệ này chỉ khiêm tốn tương ứng ở mức 14,2% và 15,8%.
1.3. Đối với sự tham gia của doanh nghiệp vào các sự kiện phổ biến, tuyên truyền do cơ quan quản lý tổ chức và chất lượng các sự kiện phổ biến, tuyên truyền
Kết quả điều tra cho thấy 12,4 % doanh nghiệp trả lời “rất thường xuyên” và “thường xuyên” tham gia các sự kiện phổ biến tuyên truyền thông tin do các cơ quan quản lý tổ chức, có 35,3% doanh nghiệp trả lời thỉnh thoảng tham gia, có 16,6% doanh nghiệp trả lời hiếm khi, có 35,6% doanh nghiệp trả lời không tham gia các sự kiện này. Các doanh nghiệp FDI, các doanh nghiệp Nhà nước có xu hướng tham gia nhiều hơn các doanh nghiệp ngoài Nhà nước. Về chất lượng các sự kiện phổ biến tuyên truyền, các doanh nghiệp đánh giá khá tích cực. Về các khía cạnh chủ đề, diễn giả, nội dung và tài liệu, tỷ lệ đánh giá ở mức tốt và rất tốt tương ứng là 66%, 74%, 61%, 71%.
1.4. Việc tham gia các chương trình xúc tiến thương mại và chất lượng các chương trình xúc tiến thương mại
Theo kết quả điều tra, tỷ lệ doanh nghiệp thường xuyên và rất thường xuyên tham gia các chương trình xúc tiến thương mại là 17,1%. Tỷ lệ doanh nghiệp thỉnh thoảng tham gia các chương trình xúc tiến thương mại là 47,1% trong khi có đến 35,8% doanh nghiệp cho biết hiếm khi hoặc không tham gia các chương trình này.
Về chất lượng các chương trình xúc tiến thương mại, có 47,3% doanh nghiệp đánh giá tốt. Nội dung được nhiều doanh nghiệp đánh giá tốt là cẩm nang hoặc tài liệu được cung cấp với tỷ lệ 48%. Tuy nhiên, về tiêu chí “có đáp ứng yêu cầu của doanh nghiệp hay không” chỉ có 45,7% doanh nghiệp đánh giá tích cực.
1.5. Về việc cung cấp các thông tin dự báo, định hướng thị trường và chất lượng thông tin dự báo và định hướng thị trường
Kết quả điều tra cho thấy có 26,2% doanh nghiệp trả lời họ thường xuyên nhận được thông tin dự báo, định hướng xuất nhập khẩu do cơ quan quản lý địa phương cung cấp. Mức độ rất thường xuyên nhận được chiếm tỷ lệ thấp với 4,3%. Trong khi đó, có khoảng 14,7% doanh nghiệp trả lời họ hoàn toàn không nhận được thông tin và có 41,2% doanh nghiệp cho biết thỉnh thoảng nhận được thông tin.
Về chất lượng thông tin, 49,2% doanh nghiệp đánh giá chất lượng chung là bình thường, 43,3% doanh nghiệp đánh giá tính cụ thể của các thông tin ở mức tốt, 47,6% doanh nghiệp đánh giá tính tin cậy của thông tin cũng ở mức tốt, ở mức này cũng có đến 42,1% doanh nghiệp cho rằng tính kịp thời của thông tin cũng là mức tốt.
2. Đối với nhiệm vụ xây dựng pháp luật
2.1. Tình hình nắm bắt các văn bản thực thi các cam kết FTA của doanh nghiệp
Kết quả điều tra cho thấy, đối với các quy định về biểu thuế ưu đãi đặc biệt theo các FTA, có 30% doanh nghiệp đã hiểu rõ nhưng chưa bị tác động, 23,9% doanh nghiệp hiểu rõ và bị tác động, 21,1% doanh nghiệp mới chỉ nghe nói, 16,6% doanh nghiệp chưa hiểu rõ và 8,5% doanh nghiệp không biết về các văn bản.
Trong khi đó, đối với các quy định về quy tắc xuất xứ, 20,5% doanh nghiệp hiểu rõ nhưng chưa bị tác động, 11,1% doanh nghiệp hiểu rõ và bị tác động, 13,8% doanh nghiệp có nghe nói, 22,6% doanh nghiệp chưa biết rõ và 32% doanh nghiệp không biết về các văn bản.
Đối với các quy định khác được nội luật hóa, có 29,6% doanh nghiệp hiểu rõ nhưng chưa bị tác động, 28,1% doanh nghiệp hiểu rõ và đã bị tác động, 19,7% doanh nghiệp có nghe nói và 15,4% doanh nghiệp chưa hiểu rõ.
2.2. Tình hình tiếp cận các văn bản pháp luật trước và sau khi ban hành
Đối với văn bản trước khi ban hành, 23,4% doanh nghiệp có thể dễ dàng tiếp cận, 16,2% doanh nghiệp có thể tiếp cận nhưng khá khó khăn, 13,4% doanh nghiệp có thể tiếp cận được nhưng phải yêu cầu, 14,8% doanh nghiệp biết nhưng không tiếp cận được và 32,1% doanh nghiệp không biết dự thảo văn bản.
Đối với văn bản sau khi ban hành, 46,4% doanh nghiệp cho biết có thể dễ dàng tiếp cận, 14,1% doanh nghiệp có thể tự tiếp cận nhưng khá khó khăn, 13,8% doanh nghiệp có thể tiếp cận nhưng phải yêu cầu, 9,1% doanh nghiệp biết nhưng không tiếp cận được và 16,5% doanh nghiệp không biết đến văn bản.
2.3. Việc hướng dẫn doanh nghiệp về các văn bản pháp luật thực thi các FTA tại địa phương
Đối với các quy định về biểu thuế ưu đãi đặc biệt theo các FTA, 23,1% doanh nghiệp cho biết cơ quan quản lý địa phương chỉ hướng dẫn khi có văn bản mới, 19,9% doanh nghiệp cho biết hướng dẫn thường xuyên, 28,4% doanh nghiệp cho biết thỉnh thoảng mới tổ chức hướng dẫn doanh nghiệp, 13,4% cho biết hiếm khi hướng dẫn và 17,3% doanh nghiệp họ không biết đến việc hướng dẫn hoặc tổ chức hướng dẫn này. Đối với các quy định về quy tắc xuất xứ, 23,7% doanh nghiệp cho biết cơ quan quản lý địa phương chỉ hướng dẫn khi có văn bản mới, 23% doanh nghiệp cho biết hướng dẫn thường xuyên, 26,2% doanh nghiệp cho biết thỉnh thoảng mới tổ chức hướng dẫn doanh nghiệp, 11% cho biết hiếm khi hướng dẫn và 16,1% doanh nghiệp họ không biết đến việc hướng dẫn hoặc tổ chức hướng dẫn này.
Với các quy định khác, 15% doanh nghiệp cho biết cơ quan quản lý địa phương chỉ hướng dẫn khi có văn bản mới, 16,4% doanh nghiệp cho biết hướng dẫn thường xuyên, 22,3% doanh nghiệp cho biết thỉnh thoảng mới tổ chức hướng dẫn doanh nghiệp, 9% cho biết hiếm khi hướng dẫn và 37,2% doanh nghiệp họ không biết đến việc hướng dẫn hoặc tổ chức hướng dẫn này.
2.4. Về chất lượng hướng dẫn các văn bản pháp luật thực thi cam kết FTA tại địa phương
Kết quả điều tra cho thấy, chỉ 10% doanh nghiệp đánh giá chất lượng hướng dẫn của cơ quan địa phương là rất tốt, 38% đánh giá tốt, 46,2% đánh giá bình thường (chiếm tỷ lệ cao nhất), 3,9% đánh giá kém và 1,8% đánh giá rất kém.
3. Đối với việc tận dụng FTA và nhiệm vụ hỗ trợ nâng cao năng lực cạnh tranh
Trong số các FTA mà doanh nghiệp có ý kiến phản hồi, Hiệp định FTA giữa ASEAN và Trung Quốc (ACFTA) và Hiệp định EVFTA được các doanh nghiệp tận dụng hiệu quả nhất với tỷ lệ tương ứng là 40,9% và 37,1%. Hiệp định CPTPP và RCEP được các doanh nghiệp tận dụng hiệu quả ở mức trung bình, với tỷ lệ tương ứng là 35,1% và 33,7%. Đáng chú ý Hiệp định UKVFTA có tỷ lệ doanh nghiệp tận dụng hiệu quả khá khiêm tốn với tỷ lệ chỉ 28,8%.
Khả năng tận dụng hiệu quả các FTA thay đổi theo nhóm doanh nghiệp. Nhóm doanh nghiệp FDI có tỷ lệ tận dụng hiệu quả và rất hiệu quả cao nhất, cụ thể là 63,2% đối với Hiệp định ACFTA, 55,4% đối với Hiệp định EVFTA, 50% đối với Hiệp định CPTPP, 42% đối với Hiệp định UKVFTA và 48% với Hiệp định RCEP. Tiếp theo là nhóm doanh nghiệp Nhà nước với tỷ lệ tận dụng hiệu quả và rất hiệu quả theo các Hiệp định ACFTA, EVFTA, CPTPP, UKVFTA và RCEP tương ứng là 60%, 55%, 49%, 34% và 40%. Doanh nghiệp ngoài Nhà nước có tỷ lệ tận dụng hiệu quả và rất hiệu quả thấp nhất, tỷ lệ tương ứng theo các Hiệp định kể trên là 57%, 45%, 42%, 34% và 41%.
3.2. Hiệu quả của các chương trình và chính sách hỗ trợ, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Kết quả điều tra cho thấy có 34,1% doanh nghiệp đánh giá hoạt động của cơ quan quản lý địa phương ở mức “rất hiệu quả” và “hiệu quả”. Trong số các chương trình và chính sách hỗ trợ cho doanh nghiệp, chính sách hỗ trợ doanh nghiệp kết nối với doanh nghiệp FDI tại Việt Nam có tỷ lệ doanh nghiệp đánh giá “hiệu quả” và “rất hiệu quả” cao nhất với tỷ lệ 33%, tiếp theo là chính sách hỗ trợ ứng phó các biện pháp phòng vệ thương mại, xây dựng và bảo vệ thương hiệu với tỷ lệ 32%. Chính sách hỗ trợ ứng dụng khoa học công nghệ và hỗ trợ tiếp cận tín dụng có tỷ lệ doanh nghiệp đánh giá “hiệu quả” và “rất hiệu quả” thấp nhất với tỷ lệ chỉ 28%.
3.3. Sự cần thiết xây dựng các chương trình và chính sách hỗ trợ, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Các doanh nghiệp rất quan tâm đến các chương trình và chính sách hỗ trợ dành riêng cho tận dụng FTA với tỷ lệ 78,3% doanh nghiệp cho rằng “rất cần thiết” và “cần thiết”. Các chương trình và chính sách hỗ trợ dành riêng cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu cũng nhận được sự quan tâm rất lớn khi có tới gần 80% doanh nghiệp cho rằng “rất cần thiết” và “cần thiết”. Các chương trình xử lý vấn đề nội tại của doanh nghiệp như vốn, công nghệ… hay các chương trình khác nhận được sự quan tâm ít hơn, với khoảng 75% doanh nghiệp cho rằng “rất cần thiết” và “cần thiết”.
4. Đối với vấn đề phát triển bền vững
4.1. Mức độ hiểu biết của doanh nghiệp đối với vấn đề phát triển bền vững
Trong lĩnh vực lao động, có 19,1% doanh nghiệp cho biết “hiểu đầy đủ và rõ ràng”, 38,6% doanh nghiệp “hiểu một phần”, 16,1% chưa hiểu rõ, 18% có nghe nói và 9,5% không biết. Trong lĩnh vực môi trường, tỷ lệ tương ứng là 20%, 38%, 16,2%, 17%, 8,5%.
4.2. Mức độ ảnh hưởng của việc tuân thủ cam kết phát triển bền vững đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
Trong lĩnh vực lao động, có 11% doanh nghiệp cho biết việc tuân thủ cam kết “ảnh hưởng rất lớn” đến hoạt động của mình, 24% cho biết “ảnh hưởng lớn”, 33% cho biết “có ảnh hưởng”, 16% cho biết “ít ảnh hưởng” và khoảng 8% cho biết “không ảnh hưởng”. Trong lĩnh vực môi trường, tỷ lệ tương ứng là 12%, 24%, 37%, 17% và 7%.
4.3. Đánh giá hiệu quả chương trình hỗ trợ thực hiện phát triển bền vững
Về hiệu quả hỗ trợ của cơ quan quản lý địa phương đối với các vấn đề phát triển bền vững, trong lĩnh vực lao động, có 9,5% doanh nghiệp đánh giá “rất hiệu quả”, 36,1% đánh giá “hiệu quả”, 41,4% đánh giá “bình thường” và chỉ 2% đánh giá “không hiệu quả”. Trong lĩnh vực môi trường, tỷ lệ tương ứng là 10,1%, 36,8%, 40,5% và 1,9%.
Nguồn: Vụ Chính sách thương mại đa biên, Bộ Công Thương
