Tin tức

Đánh giá việc thực hiện các Hiệp định thương mại tự do của các địa phương (FTA Index) năm 2024 (Phần 2): Một số kết quả chính theo chỉ số thành phần

Thứ Tư, 26/11/2025

Bộ Công Thương đã có báo cáo Thủ tướng Chính phủ về kết quả FTA Index 2024, trong đó Bộ Công Thương đã báo cáo kết quả theo từng cấu phần bao gồm: nhiệm vụ tuyên truyền phổ biến thông tin về các FTA, nhiệm vụ xây dựng pháp luật, việc tận dụng FTA và nhiệm vụ hỗ trợ nâng cao năng lực cạnh tranh, vấn đề phát triển bền vững. Đây là các nội dung mà các doanh nghiệp quan tâm khi tận dụng các cơ hội từ các FTA. Kết cấu báo cáo FTA Index thường được xây dựng theo dạng phân tích tổng hợp, có số liệu dẫn chiếu, đảm bảo tính khách quan, trung thực, phản ánh đúng nhất có thể về việc triển khai FTA Index của các địa phương trong năm 2024 vừa qua. Kết quả chung về triển khai FTA Index 2024, cụ thể như sau:

1. Kết quả chung

1.1. Chỉ số thành phần về hoạt động tuyên truyền, phổ biến

Mục đích của Chỉ số thành phần về hoạt động tuyên truyền, phổ biến là đánh giá mức độ khác biệt giữa các tỉnh, thành về tiếp cận của doanh nghiệp đối với hoạt động tuyên truyền, phổ biến về các FTA.

Điểm số Chỉ số thành phần về hoạt động tuyên truyền, phổ các tỉnh, thành được xếp hạng được xây dựng bằng cách tính trung bình của các chỉ tiêu sau khi đã được chuẩn hóa theo thang điểm 10.

Kết quả tính toán cụ thể là Ninh Bình là tỉnh có số điểm đạt cao nhất với 8,3 điểm, tiếp theo trong Top 10 là các tỉnh Quảng Bình, Thanh Hóa, Cà Mau, Hà Giang, Quảng Ninh, Thái Nguyên, Điện Biên, Long An và Bạc Liêu. Các tỉnh ngoài Top 10 có điểm từ 6 trở lên là Khánh Hòa, Trà Vinh, Tiền Giang, Hải Phòng, Bình Dương, Thành phố Hồ Chí Minh, Bến Tre, Bà Rịa – Vũng Tàu, Kiên Giang, Phú Yên, Đồng Nai, Bình Định, Lâm Đồng, Quảng Nam, Bình Thuận, Đắk Lắk, Cần Thơ và An Giang.

Tỉnh có điểm thấp nhất là Đồng Tháp với 2,75 điểm.

1.2. Chỉ số thành phần về thực hiện quy định pháp luật để thực thi FTA

Chỉ số thành phần về thực hiện quy định pháp luật để thực thi FTA đánh giá mức độ khác biệt giữa các tỉnh, thành về mức độ tiếp cận của các doanh nghiệp đối với các văn bản pháp luật được ban hành để thực hiện các cam kết theo các FTA. Chỉ số thành phần này bao gồm 6 chỉ tiêu

Điểm số Chỉ số thành phần thực hiện quy định pháp luật để thực thi FTA của các tỉnh, thành phố được xây dựng bằng cách tính điểm trung bình của các chỉ tiêu sau khi đã được chuẩn hóa theo thang điểm 10.

Kết quả tính toán cụ thể là Khánh Hòa là tỉnh có điểm số cao nhất với 8,69 điểm, tiếp theo trong Top 10 là các tỉnh Thanh Hóa, Quảng Bình, Cà Mau, Ninh Bình, Thái Nguyên, Trà Vinh, Bình Dương,  Hà Giang và Kiên Giang. Các tỉnh nằm ngoài Top 10 nhưng có điểm số từ 6 trở lên là Điện Biên, Phú Yên, Quảng Ninh, Tiền Giang, Bà Rịa – Vũng Tàu, Long An, Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Định, Cần Thơ, Hà Nội, Bạc Liêu, Lâm Đồng, Quảng Nam, Bến Tre và Hải Phòng,

Tỉnh có điểm thấp nhất là Quảng Trị với 2,38 điểm.

1.3. Chỉ số thành phần về chương trình và chính sách hỗ trợ và nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp

Chỉ số thành phần về chương trình và chính sách hỗ trợ và nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp đánh giá mức độ khác biệt giữa các tỉnh, thành về mức độ tiếp cận của các doanh nghiệp đối với các chương trình hỗ trợ và nâng cao năng lực để thực thi và tận dụng FTA.

Điểm số Chỉ số thành phần về chương trình và chính sách hỗ trợ và nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp của các tỉnh, thành phố được xây dựng bằng cách tính điểm trung bình của các chỉ tiêu sau khi đã được chuẩn hóa theo thang điểm 10.

Kết quả tính toán cụ thể là Thanh Hóa là tỉnh có điểm số cao nhất với 7,33 điểm, tiếp theo trong Top 10 là các tỉnh Cà Mau, Kiên Giang, Bạc Liêu, Bình Dương, Bà Rịa, Quảng Ninh, Long An, Hà Giang và Ninh Bình.  Các tỉnh nằm ngoài Top 10 nhưng có điểm số từ 6 trở lên là Trà Vinh, Quảng Bình, Bình Định, Bình Thuận và Tiền Giang.

Tỉnh có điểm thấp nhất là Hà Tĩnh với 3,09 điểm.

1.4. Chỉ số thành phần về phát triển bền vững

Chỉ số thành phần về phát triển bền vững đánh giá mức độ khác biệt giữa các tỉnh, thành về mức độ sẵn sàng và việc tiếp cận của các doanh nghiệp đối với các biện pháp hỗ trợ trong việc thực thi các cam kết về phát triển bền vững.

Điểm số Chỉ số thành phần về phát triển bền vững của các tỉnh, thành phố được xây dựng bằng cách tính điểm trung bình của các chỉ tiêu sau khi đã được chuẩn hóa theo thang điểm 10.

Kết quả tính toán cụ thể là Bạc Liêu là tỉnh có điểm số cao nhất với 8,35 điểm, tiếp theo trong Top 10 là các tỉnh Phú Yên, Bình Dương, Đắk Lắk, Khánh Hòa, Thanh Hóa, Điện Biên, Trà Vinh, Cà Mau và Lâm Đồng. Các tỉnh nằm ngoài Top 10 nhưng có điểm số từ 6 trở lên là Quảng Ninh, Long An, Bà Rịa, Kiên Giang, Bình Định, Thái Nguyên, Bình Thuận, Hà Giang, Bến Tre, Đồng Nai, Thành phố Hồ Chí Minh, Sóc Trăng, Đồng Tháp, Tiền Giang, Quảng Bình, Ninh Bình, Bình Phước, Kon Tum và Nghệ An.

Tỉnh có điểm thấp nhất là Lào Cai với 1,31 điểm.

1.5. Kết quả xếp hạng Chỉ số FTA Index năm 2024

Chỉ số FTA Index 2024 là điểm số tổng hợp của 4 chỉ số thành phần theo thang điểm 10 và tổng hợp thành thang điểm 40.

Căn cứ trên kết quả tổng hợp, báo cáo nghiên cứu phân thành 6 nhóm chất lượng bao gồm: Rất tốt (Từ 36,55 điểm trở lên), Tốt (Từ 31,47 đến dưới 36,55 điểm), Khá (từ 26,40 điểm đến dưới 31,47 điểm), Trung bình (Từ 21,77 điểm đến dưới 26,40 điểm), Tương đối thấp (từ 16,24 điểm đến dưới 21,32 điểm) và Thấp (dưới 16,24 điểm).

Theo kết quả tổng hợp, không có tỉnh nào nằm ở nhóm Rất tốt. Có 11 tỉnh nằm trong nhóm Tốt, 16 tỉnh nằm trong nhóm Khá, 16 tỉnh nằm trong nhóm Trung bình, 10 tỉnh nằm trong nhóm Tương đối thấp và 1 tỉnh nằm trong nhóm Thấp.  

Kết quả xếp hạng các tỉnh, thành theo Chỉ số FTA Index 2024, cụ thể như sau:

- Tỉnh có điểm số cao nhất là Cà Mau với 34,9 điểm.

- Các tỉnh nằm trong nhóm Tốt ngoài Cà Mau là Thanh Hóa, Bình Dương, Khánh Hòa, Trà Vinh, Long An, Hà Giang, Bạc Liêu, Ninh Bình, Điện Biên và Bà Rịa – Vũng Tàu.

- Các tỉnh nằm trong nhóm Khá là Kiên Giang, Quảng Ninh, Thành phố Hồ Chí Minh, Quảng Bình, Đồng Nai, Tiền Giang, Thái Nguyên, Phú Yên, Bình Định, Bình Thuận, Lâm Đồng, Bến Tre, Đắk Lắk, Quảng Nam, Hải Phòng và Cần Thơ.

- Các tỉnh nằm trong nhóm Trung bình là Bình Phước, Sóc Trăng, Hà Nội, Thái Bình, Tây Ninh, Nghệ An, Kon Tum, Hòa Bình, Đồng Tháp, Lạng Sơn, Bắc Giang, Gia Lai, An Giang, Phú Thọ, Hải Dương và Vĩnh Phúc.

- Các tỉnh nằm trong nhóm Tương đối thấp là Nam Định, Hưng Yên, Hà Nam, Yên Bái, Đà Nẵng, Bắc Ninh, Thừa Thiên Huế, Hà Tĩnh, Ninh Thuận và Lào Cai.

- Tỉnh nằm trong nhóm Thấp là Quảng Trị.

2. Đánh giá sơ bộ

2.1. Về hoạt động tuyên truyền, phổ biến

- Mức độ nhận biết, hiểu và nắm rõ các cam kết theo các FTA, đặc biệt các FTA thế hệ mới của doanh nghiệp Việt Nam tiếp tục được cải thiện.

- Hình thức tuyên truyền, phổ biến về các FTA khá đa dạng, bao gồm các hình thức tổ chức trực tiếp thông qua các hội nghị, hội thảo, tọa đàm, cung cấp các ấn phẩm, tài liệu, các phương tiện thông tin báo chí cho đến các hình thức trực tuyến như các cổng thông tin điện tử.

- Chất lượng thông tin tuyên truyền, phổ biến, bao gồm các chương trình xúc tiến thương mại, dự báo thị trường… được các doanh nghiệp đánh giá khá tích cực, cơ bản đáp ứng được nhu cầu của doanh nghiệp.

2.2. Về hướng dẫn các văn bản pháp luật thực thi FTA

- Số lượng các doanh nghiệp biết đến các văn bản pháp luật thực thi các cam kết FTA khá cao, trung bình chếm 70% số doanh nghiệp điều tra.

- Phần lớn các doanh nghiệp có thể tiếp cận các văn bản pháp luật thực thi các cam kết FTA nhưng việc tiếp cận văn bản sau khi ban hành có tỷ lệ cao hơn việc tiếp cận văn bản trước khi ban hành.

- Chất lượng hướng dẫn các văn bản pháp luật thực thi các cam kết FTA cơ bàn được đánh giá tích cực, cho thấy sự nỗ lực của các cơ quan quản lý địa phương.

2.3. Về tận dụng FTA và hiệu quả các chính sách hỗ trợ nâng cao năng lực cạnh tranh

- Các doanh nghiệp đều tận dụng được các FTA dù mức độ tận dụng thay đổi theo các hiệp định, đặc biệt Hiệp định EVFTA được nhiều doanh nghiệp tận dụng hiệu quả là tín hiệu rất tích cực.

- Một số chính sách hỗ trợ nâng cao năng lực cạnh tranh do các cơ quan quản lý địa phương triển khai đem lại hiệu quả tích cực cho doanh nghiệp, ví dụ như chính sách kết nối doanh nghiệp FDI, chính sách đối phó các biện pháp phòng vệ thương mại…

2.4. Về phát triển bền vững

- Số lượng các doanh nghiệp biết đến các cam kết về phát triển bền vững của Việt Nam khá cao, chiếm tới hơn 70% số doanh nghiệp điều tra. Điều đó cho thấy việc triển khai các hoạt động tuyên truyền về vấn đề phát triển bền vững trong thời gian qua có kết quả tích cực.

- Hiệu quả các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp thích ứng với các cam kết và nội dung về phát triển bền vững cơ bản được doanh nghiệp đánh giá tích cực. 

Nguồn: Vụ Chính sách thương mại đa biên, Bộ Công Thương 


Bài viết liên quan