Đánh giá về quá trình một năm thực hiện EVFTA vừa qua của Việt Nam - Những kết quả cụ thể
Quan hệ thương mại đầu tư song phương giữa EU và Việt Nam đã được đẩy mạnh kể từ khi hai bên chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao năm 1996. Trong nhiều năm liền, EU là đối tác thương mại lớn thứ hai của Việt Nam xét về xuất khẩu và là đối tác thương mại lớn thứ tư của Việt Nam xét về thương mại hai chiều. Năm 2017 là một dấu mốc quan trọng trong quan hệ thương mại song phương khi lần đầu tiên Việt Nam trở thành 1 trong 10 nước xuất khẩu lớn nhất của EU. Với những nền tảng đó, Hiệp định EVFTA đã được kỳ vọng sẽ kiến tạo những động lực to lớn đưa mối quan hệ thương mại - đầu tư song phương lên một tầm cao mới.
Trên thực tế, Hiệp định EVFTA là một trong những Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới có vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển kinh tế, thương mại của Việt Nam. Là một FTA thế hệ mới có tiêu chuẩn cao, toàn diện, mức độ cam kết sâu và rộng nhưng đồng thời vẫn đảm bảo sự cân bằng lợi ích cho cả hai bên, Hiệp định EVFTA được đánh giá sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển của Việt Nam về cả mặt kinh tế lẫn pháp luật – thể chế.
Sau thời gian gần 01 năm thực thi Hiệp định EVFTA, thương mại – đầu tư song phương đạt được những kết quả tích cực, với những con số ấn tượng, bất chấp những khó khăn và trở ngại do đại dịch Covid-19 gây ra trong thời gian qua. Cụ thể, theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, 6 tháng đầu năm 2021, kim ngạch thương mại 2 chiều giữa Việt Nam và EU đạt 27,67 tỷ USD, tăng 18,4% so với cùng kỳ năm 2020.
Nếu tính riêng xuất khẩu, kim ngạch xuất khẩu 6 tháng đầu năm 2021 đạt 19,4 tỷ USD, tăng 18,3% so với 6 tháng đầu năm 2020. Trong số đó, tỷ lệ tận dụng mẫu C/O EUR1 đạt 29,09% trong tổng số kim ngạch xuất khẩu. Các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam sang thị trường EU là điện thoại và linh kiện, máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện, hàng giày dép (tỷ lệ tận dụng C/O là 99%), hàng dệt may (tỷ lệ tận dụng C/O là 16,26%), thủy sản (tỷ lệ tận dụng C/O là 73,5%), túi xách và ví (tỷ lệ tận dụng C/O là 62,46%). Nhiều mặt hàng nông, lâm nghiệp xuất khẩu chủ lực của Việt Nam đã có mức tăng trưởng đáng kể so với cùng kỳ năm 2019, cụ thể như: (i) sản phẩm từ cao su đạt 61 triệu USD tăng 56,91%; (ii) gạo đạt 5,2 triệu USD tăng 3,73; (iii) sản phẩm mây, tre, cói và thảm đạt 70,5 triệu USD tăng 33,75%; (iv) rau quả đạt 63,8 triệu USD tăng 12,5%.
Về nhập khẩu, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa từ thị trường EU 6 tháng đầu năm 2021, đạt 8,2 tỷ USD, tăng 19,1% so với cùng kỳ năm 2020. Các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu từ EU là linh kiện, phụ tùng ô tô, ô tô nguyên chiếc, hàng điện gia dụng và linh kiện v.v…
Về đầu tư, trong thời gian qua, với những cam kết về quản trị minh bạch từ Hiệp định EVFTA và những cam kết tạo môi trường thương mại đầu tư thông thoáng, thuận lợi cho doanh nghiệp và nhà đầu tư của hai bên, Việt Nam đã tiếp nhận được nguồn đầu tư có chất lượng và được học hỏi, hấp thụ khoa học và công nghệ tiên tiến từ EU, tạo ra những giá trị và lợi ích cho doanh nghiệp và nhà đầu tư của cả hai bên. Tính đến tháng 6 năm 2021, EU có 2.221 dự án (tăng 142 dự án so với cùng kỳ năm 2020) từ 26/27 quốc gia thuộc EU còn hiệu lực tại Việt Nam với vốn đầu tư đăng ký đạt 22,216 tỷ USD (tăng 449 triệu USD so với cùng kỳ năm 2020), chiếm 5,58% tổng vốn đầu tư đăng ký của các nước và vùng lãnh thổ vào Việt Nam và chiếm 6,57% số dự án.
Như vậy trong thời gian qua, việc thực thi Hiệp định EVFTA đã và đang mạang lại những kết quả vô cùng tích cực cho thương mại và đầu tư song phương, bất kể những tác động bất lợi của đại dịch Covid-19. Điều đó cho thấy, doanh nghiệp của cả hai bên đang hiện thực hóa được những cơ hội và lợi ích mà Hiệp định này mang lại.
Một số hạn chế và nguyên nhân
Trong gần 01 năm thực thi Hiệp định EVFTA, bên cạnh những kết quả tích vực về thương mại đầu tư song phương, vần còn tồn tại một số khó khăn và thách thức trong việc thực thi Hiệp định này khiến cho việc tận dụng Hiệp định này còn có những hạn chế nhất định như việc tận dụng các cam kết ưu đãi chưa thực sự tương xứng với tiềm năng, doanh nghiệp chưa sự quan tâm tới việc tìm hiểu và tận dụng cơ hội từ Hiệp định này hay hoạt động phổ biến tuyên truyền về Hiệp định chưa đạt được hiệu quả như mong đợi. Bộ Công Thương cho rằng các nguyên nhân gây ra các hạn chế này có thể được nhìn nhận như sau:
Thứ nhất, tình hình đại dịch Covid xảy ra và diễn biến phức tạp đã ảnh hưởng không nhỏ tới việc triển khai kế hoạch thực thi Hiệp định EVFTA. Ngoài ra, đại dịch này cũng đã gây nhiều thiệt hại lớn cho rất nhiều doanh nghiệp Việt Nam, buộc họ phải có những điều chỉnh chiến lược đầu tư kinh doanh cho phù hợp với bối cảnh mới.
Thứ hai, công tác tuyên truyền dù đã được đa dạng hóa và đem lại một số kết quả tích cực nhưng số lượng doanh nghiệp hiểu rõ cam kết trong lĩnh vực hoạt động của mình còn khiêm tốn. Theo khảo sát của VCCI, có tới 45% doanh nghiệp xuất nhập khẩu chưa biết đến cam kết thuế quan liên quan đến ngành hàng của mình. Điều này cho thấy hoạt động tuyên truyền cần cụ thể hóa hơn nữa, đa dạng hơn nữa, đi sâu vào ngành hàng và lĩnh vực doanh nghiệp quan tâm cũng như hướng đúng đối tượng doanh nghiệp hơn nữa.
Thứ ba, một bộ phận doanh nghiệp còn khá thờ ơ, chưa thực sự chủ động trong việc tìm hiểu và phối hợp với các cơ quan và tổ chức liên quan trong các hoạt động tuyên truyền, phổ biến. Vấn đề nhiều Bộ, ngành và địa phương tổ chức hội nghị, hội thảo một cách công phu nhưng không mời được đại diện doanh nghiệp hoặc mời không được thành phần phù hợp vẫn còn khá phổ biến.
Thứ tư, dù nhận thức về công tác hội nhập kinh tế quốc tế nói chung và thực thi FTA nói riêng của một số cơ quan, địa phương đã được cải thiện nhưng công tác dự báo, sự quan tâm và đánh giá đúng mức phạm vi tác động của hội nhập và thực thi FTA còn nhiều hạn chế, chưa có tính hệ thống và kịp thời. Nhiều địa phương chưa thực sự chủ động vào cuộc trong việc xây dựng định hướng, chiến lược tận dụng FTA cho các doanh nghiệp tại địa phương mình. Điều này cũng một phần là do đội ngũ cán bộ ở các cơ quan, địa phương tham mưu về công tác hội nhập kinh tế quốc tế còn mỏng, chưa được đào tạo bài bản và cập nhật thường xuyên về các thông tin hay kiến thức cần thiết phục vụ cho công việc của mình.
Thứ năm, về phía các doanh nghiệp, hiện tại các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ năng lực cạnh tranh còn yếu, giá thành còn cao, chất lượng còn thấp so với tiêu chuẩn quốc tế, đồng thời chưa thực sự chú trọng nâng cao trình độ quản trị, chất lượng nguồn nhân lực; chưa chú trọng xây dựng, phát triển thương hiệu và xây dựng chiến lược kinh doanh dài hạn, công tác tiếp cận thị trường còn hạn chế; hạ tầng, dịch vụ phục vụ cho công tác tiêu thụ sản phẩm, hỗ trợ xuất khẩu, xúc tiến thương mại còn yếu và thiếu. Ngoài ra, rất nhiều doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận các nguồn vốn để mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh phục vụ mục tiêu tận dụng các FTA của Việt Nam.
Thứ sáu, vấn đề đáp ứng điều kiện về quy tắc xuất xứ vẫn là một thách thức với nhiều doanh nghiệp Việt Nam. Mặc dù hiện nay đã có một số doanh nghiệp chủ động được nguồn nguyên liệu trong nước hay đã có một số dự án đầu tư sản xuất các nguồn nguyên liệu trong nước cho ngành dệt may… nhưng trong giai đoạn ngắn hạn chưa thể giúp Việt Nam khắc phục được vấn đề này.
Thứ bảy, các nguồn lực để triển khai các hoạt động thực thi Hiệp định EVFTA dù còn hạn chế nhưng lại đang phân tán, chưa có sự kết nối khiến cho nhiều hoạt động bị trùng lặp, gây lãng phí và chưa đạt được hiệu quả tối ưu. Đơn cử có những trường hợp cùng một địa điểm diễn ra 2-3 hội thảo cùng về một nội dung nhưng do các cơ quan khác nhau tổ chức. Mặc dù Thủ tướng Chính phủ đã có chỉ đạo về việc các Bộ, ngành và địa phương cần tăng cường kết nối và phối hợp với cơ quan chủ trì thực thi FTA là Bộ Công Thương nhưng cho đến nay kết quả thực hiện còn tương đối hạn chế.
Thứ tám, thiếu kinh phí triển khai các hoạt động vẫn là một khó khăn chưa được khắc phục. Đây là vấn đề cần được giải quyết để đem lại hiệu quả tận dụng các FTA tốt hơn nữa cho Việt Nam. Có thể nhận thấy các FTA thế hệ mới như EVFTA đem lại cho Việt Nam hàng chục tỷ USD xuất khẩu thì việc bố trí đủ kinh phí để tận dụng và thực thi các Hiệp định này để bảo đảm các lợi ích ta đã và đang nhận được sẽ ổn định và phát triển bền vững là rất cần thiết.
