(tiếp tục)
b. Đẩy mạnh việc dạy nghề và gắn kết đào tạo với doanh nghiệp; ứng dụng khoa học, công nghệ trong sản xuất kinh doanh
Căn cứ trên nội dung báo cáo của các Bộ, ngành và địa phương, hoạt động này được thực hiện chủ yếu ở cấp địa phương nhưng không phổ biến. Đáng chú ý là một số địa phương có các hoạt động nổi bật như xây dựng chương trình đào tạo nghề trực tuyến (Bình Dương), tăng cường công tác phối hợp trong giáo dục nghề nghiệp giữa Nhà nước – Nhà trường – Nhà doanh nghiệp (Quảng Ninh)…
c. Xây dựng và hoàn thiện các biện pháp kỹ thuật
Nhiệm vụ này chủ yếu do các Bộ, ngành thực hiện. Theo báo cáo, Bộ Khoa học và Công nghệ đã bổ sung và cập nhật Hệ thống Tiêu chuẩn Việt Nam cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu, bảo đảm tính đồng bộ, hài hòa với tiêu chuẩn quốc tế, tiêu chuẩn khu vực, đồng thời tiếp tục củng cố Quy chuẩn Việt Nam để ngăn chặn sản phẩm, hàng hóa dịch vụ kém chất lượng, ảnh hưởng đến môi trường, sức khỏe, bảo vệ lợi ích quốc gia, doanh nghiệp và người tiêu dùng. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ban hành các Quy chuẩn quốc gia về thủy sản, xây dựng một số văn bản pháp luật về danh mục thuốc bảo vệ thực vật được phép sử dụng tại Việt Nam… Trong khi đó, Bộ Xây dựng đã ban hành Thông tư số 19/2019/TT-BXD ngày 31 tháng 12 năm 2019 ban hành Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về sản phẩm, hàng hóa vật liệu xây dựng (QCVN 16:2019/BXD) và hướng dẫn chứng nhận hợp quy, công bố hợp quy về sản phẩm, hàng hóa vật liệu xây dựng.
d. Tăng cường sử dụng hệ thống cảnh báo sớm trong lĩnh vực phòng vệ thương mại (PVTM); chủ động xây dựng các biện pháp phòng vệ thương mại phù hợp với các quy định và cam kết quốc tế; xây dựng và củng cố cơ chế liên ngành, địa phương trong các vụ việc phòng vệ thương mại; hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam ứng phó với các vụ điều tra phòng vệ thương mại
Bộ Công Thương đã triển khai 3 hội thảo đào tạo về lĩnh vực phòng vệ thương mại, đồng thời chủ trì và phối hợp tham gia 10 hội nghị, hội thảo, tọa đàm và chương trình tập huấn. Bộ cũng đã chủ trì xây dựng Thông tư hướng dẫn về biện pháp PVTM nhằm thực thi Hiệp định EVFTA. Ngoài ra, Bộ đã triển khai xây dựng Đề án nâng cao năng lực phòng vệ thương mại trong bối cảnh tham gia các FTA thế hệ mới hiện nay.
e. Tăng cường ứng dụng khoa học, công nghệ, triển khai các biện pháp cải thiện, nâng cao năng suất lao động và các ngành sản xuất
Về phía các Bộ, ngành, căn cứ trên báo cáo, vấn đề này chưa được thể hiện rõ ràng nên chưa có thông tin để tổng hợp và đánh giá.
Về phía các địa phương, một số tỉnh/thành đã chú trọng đến việc tăng cường ứng dụng khoa học công nghệ để nâng cao năng suất lao động. Đáng chú ý là An Giang với một loạt các hoạt động như hỗ trợ doanh nghiệp xây dựng hệ thống quản lý chất lượng và chứng nhận đạt ISO, VietGAP, áp dụng công nghệ 5S, đồng thời thúc đẩy hoạt động chuyển giao, đổi mới công nghệ…; Đà Nẵng hỗ trợ kinh phí để doanh nghiệp chuyển đổi công nghệ cũng như ưu tiên triển khai các đề tài, nghiên cứu ứng dụng liên quan đến doanh nghiệp, thúc đẩy sự hợp tác nghiên cứu giữa tổ chức khoa học công nghệ với doanh nghiệp…; Hà Nội xây dựng cơ chế đặc thù định mức chi đối với hoạt động sáng kiến, hoạt động khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, thiết lập sàn giao dịch công nghệ và triển khai Đề án công viên khoa học công nghệ; Hải Dương thực hiện Đề án “Hỗ trợ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo giai đoạn 2019-2025” cũng như áp dụng Chương trình ứng dụng khoa học phục vụ nông thôn mới…; Long An tiếp tục triển khai Đề án phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao và xây dựng mô hình doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao, tiến tới thành lập doanh nghiệp công nghệ cao trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, công nghiệp phục vụ nông nghiệp…; Hải Phòng tổ chức các phiên kết nối cung cầu công nghệ, thiết bị trực tuyến giữa doanh nghiệp Việt Nam và Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, đồng thời tăng cường hỗ trợ doanh nghiệp và phát triển thị trường khoa học công nghệ…; Thành phố Hồ Chí Minh thành lập và triển khai Quỹ phát triển Khoa học và Công nghệ ở 121 doanh nghiệp với tổng giá trị hơn 4.146 tỷ đồng nhằm nghiên cứu cải tiến công nghệ, thiết bị, trang bị phần mềm phục vụ sản xuất, kinh doanh…
f. Tăng cường các biện pháp, cơ chế khuyến khích, định hướng các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài kết nối với doanh nghiệp nội địa, góp phần vào việc hình thành chuỗi cung ứng
Nhiệm vụ này chưa được thể hiện rõ ràng trong báo cáo của các Bộ, ngành và địa phương. Hầu hết các tỉnh/thành có báo cáo chủ yếu về tình hình thu hút hoặc chủ trương thu hút đầu tư nước ngoài, chưa đưa ra các biện pháp hoặc định hướng cụ thể để khuyến khích các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài kết nối với doanh nghiệp thành phố, giúp hình thành và phát triển chuỗi cung ứng.
g. Chú trọng phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đặc biệt trong các ngành kỹ thuật – công nghệ, luật, tài chính…
Hầu hết các tỉnh/thành đều chú ý đến việc phát triển nguồn nhân lực, trong đó có nhân lực chất lượng cao, chủ yếu dưới các hình thức đào tạo nghề, tổ chức các khóa tập huấn nâng cao năng lực trong các lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp, logistics…
h. Tiến hành đánh giá định lượng những tác động của Hiệp định EVFTA đối với các ngành sản xuất, cung cấp dịch vụ để từ đó đề xuất các biện pháp cụ thể
Hiện nay, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã đưa vào Kế hoạch thực hiện báo cáo “Đánh giá định lượng tác động của Hiệp định EVFTA sau đại dịch Covid đối với các mặt kinh tế - xã hội cũng như các ngành cụ thể” trong năm 2021. Đồng thời, Bộ cũng đã xây dựng báo cáo sô 531/BC-CP ngày 16 tháng 10 năm 2020 về kết quả thực hiện Nghị quyết số 24/2016/QH14 về Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2016-2020, trong đó có nội dung về các FTA thế hệ mới. Ngoài ra, Bộ đã hoàn thiện báo cáo tình hình và kết quả thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng giai đoạn 2016-2020, trong đó đề cập đến cơ hội từ EVFTA đối với quá trình cơ cấu lại nền kinh tế.
