(tiếp tục)
4. Chủ trương và chính sách đối với tổ chức công đoàn và các tổ chức của người lao động tại cơ sở doanh nghiệp
Theo kế hoạch ban đầu, dự kiến sẽ có 22 văn bản hướng dẫn thực hiện Bộ luật Lao động sửa đổi 2019, bao gồm 14 Nghị định, 7 Thông tư và 01 Quyết định của Thủ tướng. Thực hiện chủ trương của Chính phủ về cắt, giảm, đơn giản hóa quy định liên quan đến hoạt động kinh doanh giai đoạn 2020-2025 và ý kiến kết luận của Tổ công tác của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội ghép nội dung của 14 Nghị định thành 04 Nghị định, ghép 7 Thông tư thành 2 Thông tư.
Tính đến nay, Bộ đã xây dựng và trình Chính phủ ban hành 03 Nghị định, trình Thủ tướng Chính phủ ban hành 01 Quyết định, trình Bộ trưởng ban hành 03 Thông tư hướng dẫn Bộ luật Lao động, chỉ còn lại Nghị định quy định về tổ chức đại diện người lao động và thương lượng tập thể. Hiện nay, Bộ đã trình Thủ tướng Chính phủ bộ hồ sơ ban hành Nghị định quy định về tổ chức đại diện người lao động và thương lượng tập thể và theo chỉ đạo, Bộ LĐTBXH đang lấy ý kiến bổ sung của một số Bộ ngành để báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.
Tại địa phương, hầu hết các tỉnh, thành đều chú trọng công tác nâng cao đời sống cho người lao động, tăng cường công tác hòa giải giữa người lao động và doanh nghiệp, đôn đốc các tổ chức công đoàn trên địa bàn tỉnh chủ động làm việc với các chủ doanh nghiệp giải quyết những nội dung kiến nghị, vướng mắc, đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động. Tuy nhiên, về cơ bản phần lớn các hoạt động do các tỉnh, thành tiến hành chủ yếu là các hoạt động nâng cao đời sống của công đoàn viên, chưa đi sâu vào việc nghiên cứu xử lý những điểm mới của Bộ luật lao động sửa đổi, đặc biệt vấn đề về tổ chức của người lao động tại cơ sở. Dù vậy, một số tỉnh, thành như Bình Dương, Thành phố Hồ Chí Minh đã tổ chức tuyên truyền rộng rãi về cam kết liên quan đến lao động và phát triển bền vững trong Hiệp định EVFTA cho các cán bộ công đoàn và các tổ chức liên quan, nhấn mạnh tới vấn đề tổ chức đại diện của người lao động nằm ngoài hệ thống Tổng liên đoàn Việt Nam…; Đà Nẵng đã nghiên cứu và đang chờ văn bản hướng dẫn cụ thể để triển khai.
5. Chính sách an sinh, xã hội, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững
a. Xây dựng và ban hành đồng bộ các chính sách xã hội, bao gồm chính sách hỗ trợ về tài chính, dạy nghề để chuyển đổi nghề nghiệp
Các tỉnh, thành đều chú trọng chính sách an sinh, xã hội để hỗ trợ người lao động, đặc biệt trong bối cảnh tình trạng lao động gặp khó khăn do đại dịch Covid. Các chính sách được triển khai tương đối đa dạng từ tăng cường kết nối doanh nghiệp với các cơ sở giáo dục nghề nghiệp, hỗ trợ tài chính, tập huấn, tuyên truyền và đào tạo.
b. Đánh giá tác động của Hiệp định EVFTA đến vấn đề lao động, việc làm và xã hội và đề xuất các giải pháp để thực hiện hiệu quả Hiệp định EVFTA
Hiện chưa có báo cáo chuyên sâu đánh giá tác động của Hiệp định EVFTA đến vấn đề lao động, việc làm và xã hội.
c. Tiếp tục thúc đẩy thực thi đầy đủ các cam kết của Việt Nam trong các hiệp định đa phương về môi trường, bảo tồn và bảo vệ động thực vật hoang dã. Chú trọng công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý nghiêm các vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường và đa dạng sinh học
Về phía các địa phương, hầu hết các tỉnh, thành đều chú trọng công tác bảo vệ môi trường thông qua các biện pháp nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước về tài nguyên môi trường, chấn chỉnh công tác thanh tra, kiểm tra môi trường để kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm các sai phạm. Bên cạnh đó, một số nơi còn ban hành các văn bản pháp luật để nâng cao hiệu quả bảo vệ môi trường.
d. Tiếp tục đẩy mạnh việc triển khai các biện pháp chống lại các hành vi đánh bắt thủy sản bất hợp pháp
Đối với nhiệm vụ này, Bộ NNPTNT đã Ban hành Nghị định xử phạt hành chính đối với hành vi khai thác IUU.
III. MỘT SỐ KHÓ KHĂN, TỒN TẠI
Có thể nói, kết quả thực thi Hiệp định EVFTA trong năm 2020, đặc biệt trong bối cảnh đại dịch Covid là tích cực. Tuy nhiên, quá trình thực thi vẫn bộc lộ một số khó khăn và tồn tại cần lưu ý như sau:
1. Về việc tận dụng cơ hội từ Hiệp định EVFTA
Mặc dù hiệu quả tận dụng cơ hội từ Hiệp định EVFTA của các doanh nghiệp Việt Nam đã được cải thiện rõ rệt nhưng theo khảo sát mới nhất của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), hiện mới có 38/63 tỉnh, thành có hoạt động xuất nhập khẩu với các nước EU. Ngoài ra, một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam sang các nước EU như dệt may, thủy sản… ghi nhận tỷ lệ sử dụng mẫu C/O EVFTA còn tương đối khiêm tốn.
Ngoài ra, hoạt động xuất nhập khẩu của nhiều tỉnh, thành hiện nay còn tập trung vào các thị trường truyền thống, chưa đẩy mạnh sang các thị trường mới có FTA trong EVFTA. Có những địa phương kim ngạch xuất khẩu rất lớn nhưng tỷ trọng các thị trường quan trọng trong EU còn tương đối khiêm tốn.
