Tin tức

Nhìn lại kết quả thực thi Hiệp định EVFTA năm 2020 - Phần 6

Thứ Sáu, 27/10/2023


(tiếp tục)

IV. NGUYÊN NHÂN VÀ KIẾN NGHỊ

1. Nguyên nhân

Những vấn đề tồn tại trong quá trình thực thi Hiệp địnhEVFTA được đề cập ở trên có thể do một số nguyên nhân chính như sau:

Thứ nhất, tình hình đại dịch Covid xảy ra và diễn biến phức tạp đã ảnh hưởng không nhỏ tới việc triển khai kế hoạch thực thi Hiệp định EVFTA. Ngoài ra, đại dịch này cũng đã gây nhiều thiệt hại lớn cho rất nhiều doanh nghiệp Việt Nam, buộc họ phải có những điều chỉnh chiến lược đầu tư kinh doanh cho phù hợp với bối cảnh mới.

Thứ hai, như trên đã nói, công tác tuyên truyền dù đã được đa dạng hóa và đem lại một số kết quả tích cực nhưng số lượng doanh nghiệp hiểu rõ cam kết trong lĩnh vực hoạt động của mình còn khiêm tốn. Theo khảo sát của VCCI, có tới 45% doanh nghiệp xuất nhập khẩu chưa biết đến cam kết thuế quan liên quan đến ngành hàng của mình. Điều này cho thấy hoạt động tuyên truyền cần cụ thể hóa hơn nữa, đa dạng hơn nữa, đi sâu vào ngành hàng và lĩnh vực doanh nghiệp quan tâm cũng như hướng đúng đối tượng doanh nghiệp hơn nữa.

Thứ ba, một bộ phận doanh nghiệp còn khá thờ ơ, chưa thực sự chủ động trong việc tìm hiểu và phối hợp với các cơ quan và tổ chức liên quan trong các hoạt động tuyên truyền, phổ biến. Vấn đề nhiều Bộ, ngành và địa phương tổ chức hội nghị, hội thảo một cách công phu nhưng không mời được đại diện doanh nghiệp hoặc mời không được thành phần phù hợp vẫn còn khá phổ biến.

Thứ tư, dù nhận thức về công tác hội nhập kinh tế quốc tế nói chung và thực thi FTA nói riêng của một số cơ quan, địa phương đã được cải thiện nhưng công tác dự báo, sự quan tâm và đánh giá đúng mức phạm vi tác động của hội nhập và thực thi FTA còn nhiều hạn chế, chưa có tính hệ thống và kịp thời. Nhiều địa phương chưa thực sự chủ động vào cuộc trong việc xây dựng định hướng, chiến lược tận dụng FTA cho các doanh nghiệp tại địa phương mình. Điều này cũng một phần là do đội ngũ cán bộ ở các cơ quan, địa phương tham mưu về công tác hội nhập kinh tế quốc tế còn mỏng, chưa được đào tạo bài bản và cập nhật thường xuyên về các thông tin hay kiến thức cần thiết phục vụ cho công việc của mình.

Thứ năm, về phía các doanh nghiệp, hiện tại các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ năng lực cạnh tranh còn yếu, giá thành còn cao, chất lượng còn thấp so với tiêu chuẩn quốc tế, đồng thời chưa thực sự chú trọng nâng cao trình độ quản trị, chất lượng nguồn nhân lực; chưa chú trọng xây dựng, phát triển thương hiệu và xây dựng chiến lược kinh doanh dài hạn, công tác tiếp cận thị trường còn hạn chế; hạ tầng, dịch vụ phục vụ cho công tác tiêu thụ sản phẩm, hỗ trợ xuất khẩu, xúc tiến thương mại còn yếu và thiếu. Ngoài ra, nhiều rất nhiều doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận các nguồn vốn để mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh phục vụ mục tiêu tận dụng các FTA của Việt Nam.

Thứ sáu, vấn đề đáp ứng điều kiện về quy tắc xuất xứ vẫn là một thách thức với nhiều doanh nghiệp Việt Nam. Mặc dù hiện nay đã có một số doanh nghiệp chủ động được nguồn nguyên liệu trong nước hay đã có một số dự án đầu tư sản xuất các nguồn nguyên liệu trong nước cho ngành dệt may… nhưng trong giai đoạn ngắn hạn chưa thể giúp Việt Nam khắc phục được vấn đề này.

Thứ bảy, các nguồn lực để triển khai các hoạt động thực thi Hiệp định EVFTA dù còn hạn chế nhưng lại đang phân tán, chưa có sự kết nối khiến cho nhiều hoạt động bị trùng lặp, gây lãng phí và chưa đạt được hiệu quả tối ưu. Đơn cử có những trường hợp cùng một địa điểm diễn ra 2-3 hội thảo cùng về một nội dung nhưng do các cơ quan khác nhau tổ chức. Mặc dù Thủ tướng Chính phủ đã có chỉ đạo về việc các Bộ, ngành và địa phương cần tăng cường kết nối và phối hợp với cơ quan chủ trì thực thi FTA là Bộ Công Thương nhưng cho đến nay kết quả thực hiện còn tương đối hạn chế.

Thứ tám, thiếu kinh phí triển khai các hoạt động vẫn là một khó khăn chưa được khắc phục. Đây là vấn đề cần được giải quyết để đem lại hiệu quả tận dụng các FTA tốt hơn nữa cho Việt Nam. Có thể nhận thấy các FTA thế hệ mới như EVFTA đem lại cho Việt Nam hàng chục tỷ USD xuất khẩu thì việc bố trí đủ kinh phí để tận dụng và thực thi các Hiệp định này để bảo đảm các lợi ích ta đã và đang nhận được sẽ ổn định và phát triển bền vững là rất cần thiết. Vấn đề thiếu kinh phí là nội dung hầu hết các Bộ, ngành và địa phương đều kiến nghị trong báo cáo của mình. 


Bài viết liên quan