1. Hoàn cảnh ra đời và phát triển
Cơ chế Điều chỉnh Carbon Biên giới (CBA) là một định hướng chính sách ban hành thuế nhập khẩu dựa trên vết carbon (carbon footprint) của sản phẩm trong quá trình sản xuất. Vết carbon của mỗi sản phẩm (hàng hóa hoặc dịch vụ) được tính bằng tổng lượng phát thải sản sinh ra trong tất cả các giai đoạn trong vòng đời của sản phẩm đó.
CBA ra đời trong bối cảnh ngày càng có sự đồng thuận rộng rãi trong cộng đồng quốc tế về sự cần thiết phải hành động nhiều hơn nữa để giảm thiểu phát thải khí nhà kính (GHG) - vốn là nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng ấm lên toàn cầu và biến đổi khí hậu. Nhiều quốc gia đã hoặc đang lên kế hoạch triển khai các biện pháp định giá carbon (thành phần chính của GHG) nhằm giảm mức độ phát thải khí nhà kính, từ đó giảm thiểu biến đổi khí hậu.
CBA được đề xuất chính thức lần đầu tiên vào ngày 11 tháng 12 năm 2019 trong khuôn khổ Thỏa thuận Xanh của Liên minh Châu Âu (EU) và được Nghị viện Châu Âu (EP) thông qua vào ngày 10 tháng 3 năm 2021.
Ý tưởng về CBA được manh nha trong bối cảnh hệ thống mua bán khí thải nội địa (Emission Trading System - ETS) - được EU tiên phong triển khai áp dụng cho các doanh nghiệp nội địa từ năm 2005 - gặp phải nhiều quan ngại về việc không giúp EU đạt được mục tiêu về giảm tổng lượng phát thải khí nhà kính theo cam kết tại Hiệp định Paris về biến đối khí hậu. Ngoài ra, có nhiều ý kiến trong nội bộ EU thể hiện quan ngại về rủi ro rò rỉ carbon (carbon leakage)[1].
Dự kiến EC sẽ trình đề xuất văn bản pháp luật liên quan đến cơ chế CBA cùng các nhóm sáng kiến khác trong khuôn khổ Thỏa thuận Xanh EU vào tháng 06 năm 2021, hướng tới kết thúc đàm phán và thông qua vào cuối năm 2022. CBA được kỳ vọng triển khai muộn nhất là vào năm 2023.
2. Các nội dung chính của CBA
Cơ chế CBA có 04 mục đích chính như sau: 1) hạn chế rò rỉ phát thải; 2) tăng khả năng cạnh tranh của các ngành công nghiệp nội địa; 3) khuyến khích các đối tác thương mại và nhà sản xuất nước ngoài triển khai các biện pháp tương đương với EU; và 4) tạo nguồn doanh thu để đầu tư vào công nghệ sạch và hiện đại hóa cơ sở hạ tầng hoặc làm nguồn ngân sách quốc tế về biến đổi khí hậu.
EU dự định triển khai CBA như một phần mở rộng của hệ thống nghĩa vụ hải quan hiện tại hoặc như một chương trình tương hỗ trong khuôn khổ khung chính sách ETS hiện tại, với một hoặc kết hợp các hình thức cụ thể như sau:
Các biện pháp áp dụng tại biên giới
Gồm 3 biện pháp là:
- Định giá carbon đối với sản phẩm nhập khẩu: Nhà nhập khẩu phải trả thuế nhập khẩu hoặc mua hạn mức ETS của EU. Tuy nhiên, EU có thể kết hợp biện pháp này với việc hoàn thuế khi xuất khẩu ra khỏi EU, theo đó, cơ chế CBA hoàn chỉnh sẽ kết hợp giữa việc “đền bù” (compensation) khi nhập khẩu vào EU và “hoàn trả” (rebate) khi xuất khẩu ra khỏi EU.
- Áp thuế bù trừ cho sự khác nhau về giá carbon sử dụng tại nước xuất khẩu và EU: EU sẽ áp mức thuế cho hàng nhập khẩu và mức thuế này được tính toán trên cơ sở có sự chênh lệch (nếu có) giữa giá carbon đang áp dụng tại nước xuất khẩu và giá carbon đang được áp dụng tại EU.
- Áp chung một mức thuế nhập khẩu đối với hàng hóa của tất cả các quốc gia không áp dụng các chính sách hạn chế phát thải carbon, hoặc có áp dụng nhưng ở mức độ nới lỏng hơn so với EU: EU nhấn mạnh đây không phải là thuế carbon vì được áp lên tất cả các loại hàng hóa, và không phụ thuộc vào hàm lượng carbon.
Các biện pháp triển khai trong nội khối
Trong nội bộ các thành viên, EU sẽ áp thuế carbon trên cơ sở mức tiêu thụ, theo đó đối tượng bị áp thuế là tất cả các hàng hóa xuất xứ từ nội khối hoặc nước ngoài. Khoản thuế thu được sẽ được tái phẩn bổ lại cho các ngành sản xuất, để phục vụ ứng dụng công nghệ sản xuất sạch. Thuế tiêu thụ nói trên có thể được kết hợp với các hạn mức miễn phí (tương đương thuế quan) trong trường hợp hàng hóa nhập khẩu. Biện pháp này được triển khai sau khi hàng hóa đã thâm nhập vào thị trường EU và được áp dụng trên cơ sở không phân biệt đối xử.
I. DIỄN BIẾN QUỐC TẾ HIỆN NAY
Theo số liệu tổng hợp của Ngân hàng Thế giới (WB), đối với chính sách định giá/thị trường hóa phát thải carbon nói chung, hiện có 34 quốc gia đã triển khai hoặc có kế hoạch triển khai Hệ thống mua bán khí thải carbon cho thị trường nội địa (ETS) hoặc thuế carbon, có phạm vi điều chỉnh đến lượng khí thải tương đương 22.4% tổng mức khí thải toàn cầu. Ở cấp dưới quốc gia, hiện đã có 35 địa phương triển khai hệ thống tương tự, tập trung vào khu vực Bắc Mỹ, Trung Quốc và Nhật Bản.[2]
Cụ thể đối với chính sách thuế carbon với hàng nhập khẩu như CBA, hiện mới chỉ có 1 hệ thống đang được triển khai của Bang California, Hoa Kỳ, áp dụng giới hạn với lĩnh vực cung cấp điện trong bối cảnh lượng Bang này phải nhập khẩu một lượng lớn điện từ các Bang lân cận[3]. Tuy nhiên, bản thân hệ thống CBA của California cũng đối diện nhiều thách thức khi thị trường điện tìm ra cách lách quy định bằng biện pháp kỹ thuật trên hợp đồng.
Ở cấp quốc gia, đến nay mới có Hoa Kỳ và Anh có tín hiệu đang cân nhắc CBA. Trong khuôn khổ Kế hoạch Cách mạng Năng lượng sạch và Công lý Môi trường của Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden có đề cập dự kiến áp dụng “các phí và quota điều chỉnh carbon đối với các sản phẩm có mức phát thải carbon cao từ các quốc gia đang không hoàn thành nghĩa vụ về khí hậu và môi trường”[4]. Hoa Kỳ cũng đưa ra ý tưởng về các “liên minh hải quan carbon”, tạo lập thị trường thương mại không biên giới cho các quốc gia có hệ thống định giá carbon.[5]
Chính phủ Anh đến nay chưa chính thức đề cập dự kiến nào đối với CBA, song Anh cũng có hệ thống ETS thừa kế từ thời kỳ tiền-Brexit, nên cũng chia sẻ quan ngại chung về rò rỉ carbon với EU. Vào tháng 10 năm 2020, Hiệp hội Công nghiệp Hóa học Anh đã trình Bằng chứng Văn bản lên Nghị viện Anh về rủi ro rò rỉ carbon, và đề xuất cân nhắc CBA để phòng tránh rủi ro này.[6]
[1] Rò rỉ carbon là tình huống xảy ra khi doanh nghiệp chuyển đổi sản xuất từ quốc gia mình (thường là nước phát triển) sang quốc gia khác (thường là nước có trình độ phát triển thấp hơn) để được hưởng các chính sách khí thải nới lỏng hơn, dẫn đến tổng lượng phát thải khí nhà kính toàn cầu tăng lên. Với việc EU ngày càng mở rộng giao thương với các quốc gia và vùng kinh tế khác (đã kí kết 36 thỏa thuận thương mại ưu đãi tính đến tháng 11 năm 2020), và Hệ thống ETS của EU siết chặt chính sách khí thải nội địa, lo ngại của EU về rò rỉ carbon tuy chưa có nhiều bằng chứng thực tế nhưng là có cơ sở và do đó việc xử lí vấn đề này càng trở nên cấp thiết.
[2] https://carbonpricingdashboard.worldbank.org/
[6] https://committees.parliament.uk/writtenevidence/14928/pdf/
