(tiếp tục)
Trung Quốc
Vừa là một trong những đối tác thương mại lớn nhất với EU, đồng thời là quốc gia vừa chính thức triển khai hệ thống buôn bán khí thải carbon nội địa (ETS) từ đầu năm 2021, Trung Quốc thể hiện thái độ ít gay gắt hơn trong phát ngôn và phản ứng về cơ chế CBA. Phát biểu tại cuộc thảo luận ngày 28 tháng 01 năm 2021 với chủ đề “Trung tính Carbon: EU và Trung Quốc cần hợp tác thế nào để dẫn đầu thế giới về nỗ lực ứng phó biến đổi khí hậu”, Bộ trưởng Cố vấn từ Phái đoàn Trung Quốc tại EU Fei Shengchao cho rằng “Vấn đề này cần thời gian và chắc chắn cần thêm tham vấn và thảo luận giữa các bên liên quan chính”.
Theo tổ chức Konrad Adenauer, ưu điểm của CBA là đóng vai trò công cụ cân bằng thương mại giữa các quốc gia có sự chênh lệch lớn về tiêu chuẩn bảo vệ môi trường trong sản xuất: các quốc gia có tiêu chuẩn cao hơn cho rằng chi phí tuân thủ tiêu chuẩn lớn sẽ khiến các doanh nghiệp nội địa chuyển dây chuyền sản xuất sang các nước có tiêu chuẩn thấp hơn, sau đó tái nhập sản phẩm, vì vậy các quốc gia này cần áp dụng thuế đối với sản phẩm xuất khẩu từ các nước có tiêu chuẩn thấp để bảo vệ nền sản xuất trong nước. CBA cũng được cho là sẽ thúc đẩy các nước tiến tới nền sản xuất sạch hơn, tăng cường tính minh bạch của các sản phẩm (do vết carbon của sản phẩm sẽ được công khai), và thị trường sẽ điều chỉnh theo hướng tiêu dùng “sạch”. Đồng thời, CBA được kỳ vọng sẽ mang lại một nguồn thu cho EU.
Tuy nhiên, CBA được nhận định có một số nhược điểm, cụ thể:
- Trên thực tế, CBA bị coi là một công cụ bảo hộ thương mại vì có mục tiêu bảo vệ các ngành sản xuất nội địa trong khu vực. Do vậy việc áp dụng CBA có thể dẫn đến mâu thuẫn với mậu dịch tự do và khiến EU mất đi một lợi thế trong đàm phán thương mại.
- CBA sẽ tạo nên gánh nặng cho bộ máy hành chính liên quan tới vấn đề môi trường vốn đã hết sức phức tạp của EU và Đức. Ví dụ như việc hài hòa hệ thống trao đổi lượng tín dụng khí thải của Đức vào CBA của EU được cho là sẽ rất thách thức.
- Việc đánh giá chính xác vết carbon của các sản phẩm nhập khẩu là tương đối khó khăn, đặc biệt là với các thành phẩm và bán thành phẩm có chuỗi cung ứng dài. Hiện nay, quy trình đánh giá đã có mới chỉ phù hợp với nguyên liệu thô. Trong khi đó, việc áp dụng CBA với riêng nguyên liệu thô cũng sẽ tạo nên bất cập, bởi các doanh nghiệp nội địa trong khu vực sẽ càng có thêm động lực để chuyển dây chuyền sản xuất sang các khu vực có tiêu chuẩn môi trường thấp hơn. Đồng thời, việc này cũng có thể khiến các doanh nghiệp thực hiện các bước chế biến “ảo” trên giấy tờ để nguyên liệu được xếp vào dạng thành phẩm hoặc bán thành phẩm khi nhập khẩu, từ đó tránh né CBA.
- Việc xác định vết carbon qua so sánh với sản phẩm chuẩn (benchmarking) do EU sản xuất cũng có một số khó khăn: phương thức này chỉ thực sự đóng vai trong thúc đẩy sản xuất sạch nếu không chỉ sản phẩm có vết carbon cao hơn chuẩn bị đánh thuế mà sản phẩm có vết carbon thấp hơn mức chuẩn cũng được giảm thuế. Đồng thời, việc xác định vết carbon một cách chuẩn xác cũng yêu cầu hình thành một hệ thống chứng nhận phù hợp.
Tác động tới Việt Nam
Về cơ cấu ngành bị ảnh hưởng, các ngành nằm trong danh sách có mức độ rủi ro rò rỉ carbon cao của EU trong giai đoạn 2021-2030 chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực hóa chất, xây dựng, sản xuất và chế biến nguyên liệu thô. Đây không phải là các ngành xuất khẩu thế mạnh hiện tại của Việt Nam sang EU.
Trước mắt, xuất khẩu dệt may có khả năng bị ảnh hưởng bởi cơ chế này, do một số hoạt động trong quá trình sản xuất các sản phẩm dệt may nằm trong danh sách nói trên của EU[1]. Tuy nhiên, trong bối cảnh kim ngạch tăng trưởng nhanh chóng từ khi thông qua Hiệp định EVFTA, không loại trừ khả năng trong thời gian tới kim ngạch xuất khẩu của ta sang EU sẽ mở rộng sang các ngành thuộc danh sách rủi ro rò rỉ carbon.[2]
Bên cạnh đó, mục tiêu ứng phó biến đổi khí hậu ngày càng đạt đồng thuận cao trong và giữa các quốc gia (mà đỉnh điểm là Thỏa thuận Paris). Với số lượng quốc gia triển khai hệ thống ETS nội địa ngày càng tăng, việc triển khai chính sách biến đổi khí hậu nói chung và chính sách carbon đối với hàng nhập khẩu (CBA) nói riêng là một xu hướng tất yếu. Do đó, khi EU mở rộng phạm vi áp dụng cơ chế CBA, đồng thời các nước phát triển khác cũng áp dụng CBA, các nước chưa có hoặc có chính sách thuế carbon thấp hơn như Việt Nam có thể sẽ chịu ảnh hưởng sâu sắc hơn với số mặt hàng bị đánh thuế nhiều hơn, tác động lớn hơn trong tầm nhìn dài hạn.
Hiện trạng về chính sách thị trường hóa Carbon tại Việt Nam
Năm 2012, Việt Nam trở thành thành viên của “Chương trình sẵn sàng tham gia thị trường carbon quốc tế” (Partnership for Market Readiness - PMR) do Ngân hàng Thế giới khởi xướng và tài trợ, và năm 2015 bắt đầu triển khai thực hiện Dự án “Chuẩn bị sẵn sàng xây dựng thị trường carbon tại Việt Nam” (VNPMR). Trong khuôn khổ của Dự án VNPMR, Bộ Công Thương (Vụ Tiết kiệm Năng lượng và Phát triển Bền vững)
Vào tháng 11 năm 2020, Quốc hội Việt Nam đã thông qua Luật Bảo vệ Môi trường sửa đổi, trong đó Điều 139 quy định chi tiết về việc tổ chức và phát triển thị trường carbon trong nước. Theo đó, Bộ Tài nguyên và Môi trường trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tổng hạn ngạch phát thải khí nhà kính theo giai đoạn và hằng năm; tổ chức phân bổ hạn ngạch phát thải khí nhà kính cho các đối tượng theo quy định; tổ chức vận hành thị trường các-bon trong nước và tham gia thị trường các-bon thế giới. Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường và các Bộ, cơ quan ngang Bộ có liên quan thành lập thị trường các-bon trong nước.
Việc phát triển chính sách đã được hướng dẫn bởi ‘Chiến lược Tăng trưởng Xanh’ (2012) của Việt Nam, trong đó đặt ra mục tiêu là nền kinh tế các-bon thấp và trích dẫn việc sử dụng các công cụ dựa trên thị trường như một con đường để đạt được chiến lược. Phù hợp với chiến lược, ‘Các Hành động Giảm nhẹ Phù hợp Quốc gia’ (NAMA) đang được thực hiện trong các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp, chất thải, công nghiệp (thép, xi măng, hóa chất) và điện. Với sự hỗ trợ của PMR, Việt Nam cũng đã và đang xây dựng các đề xuất chính sách về định giá carbon và các công cụ dựa trên thị trường trong nước, bên cạnh việc phát triển MRV và hệ thống công nhận. Những hành động này nhằm củng cố sự phát triển hơn nữa của ETS quốc gia.
Hiện nay, đã có một số Công ước quốc tế liên quan đến cam kết kiểm soát phát thải carbon như: Công ước Khung của Liên Hợp Quốc về Biến đổi khí hậu (UNFCCC); Nghị định thư Kyoto của Công ước khung của Liên hợp quốc về Biến đổi khí hậu; Nghị định thư Montreal về các chất làm suy giảm tầng ôzôn, v.v. Năm 2018, Tổ chức tiêu chuẩn hóa quốc tế đã ban hành tiêu chuẩn ISO 14067:2018 Greenhouse gases - Carbon footprint of products - Requirements and guidelines for quantification (Khí nhà kính - Vết carbon của sản phẩm - Yêu cầu và hướng dẫn định lượng). Đây là tiêu chuẩn tự nguyện áp dụng. Tuy nhiên, trong quá trình xây dựng dự thảo, Việt Nam (Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng) đã bỏ phiếu trắng đối với dự thảo này với lý do một nước đang phát triển như Việt Nam rất khó có thể kiểm soát được toàn bộ phát thải trong quá trình sản xuất. Đây cũng là quan điểm gắn với lợi ích kinh tế, xã hội tại thời điểm hiện nay của phần lớn các quốc gia đang phát triển.
[1] Xem thêm chi tiết tại Biểu đồ về cơ cấu kim ngạch thương mại hàng hóa giữa EU - Việt Nam năm 2019 của Eurostat tại Phụ lục
[2] Năm 2019, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang EU tăng trưởng nhanh nhất với các ngành: dầu động vật và thực vật (55.6%), trang thiết bị giao thông (19.4%), ngọc và kim loại hiếm (14.3%), Gỗ và than hoạt tính (13.5%), Da giầy và các loại mũ (13.3%) đều là các ngành hàng xuất khẩu phi truyền thống với thị trường EU (• Vietnam: export growth to the European Union by type of goods 2019 | Statista)
