Nhật Bản tiếp tục là thị trưởng xuất khẩu chủ đạo của ta, mặc dù có dấu hiệu nhường tỉ trọng cho các thị trường khác (giảm từ 53% . Bên cạnh đó, xuất khẩu sang Mê-xi-cô tạm thời có kim ngạch tương đương Ca-na-đa, Úc, Ma-lay-xia nhưng có tốc độ tăng trưởng vượt trội (52,25%), có tiềm năng sớm vượt các thị trường khác và lọt vào tốp 3 thị trường xuất khẩu hàng đầu của Việt Nam trong khối CPTPP.
Các ngành hàng xuất khẩu chủ đạo bao gồm: Hàng dệt may; Điện thoại các loại và linh kiện; Máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng khác; Máy vi tinh, sản phẩm điện tử và linh kiện; Phương tiện vận tải và phụ tùng với tỉ trọng khá đều trong khoảng 8,4%-10,9%.
Tổng kim ngạch xuất khẩu tháng 6/2021 vào thị trường CPTPP đạt 3,95 tỉ USD, tăng 5,7% so với tháng 5/2021 và tiếp tục thể hiện xu hướng tăng trưởng mạnh mẽ so với năm 2020, với tỉ lệ tăng trưởng so với cùng kỳ đạt 38%. Tổng kim ngạch xuất khẩu nửa năm 2021 đạt 22,06 tỉ USD, tăng trưởng 22,68 so với cùng kỳ%, chiếm tỉ trọng 14% trên tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước.
Nếu như kim ngạch xuất khẩu trong các tháng nửa đầu năm 2020, đặc biệt là Quý 2 năm 2020, chứng kiến sự sụt giảm so với cùng kỳ năm 2019, thì sang 2021, kim ngạch xuất khẩu đã hoàn toàn phục hồi và vượt ngưỡng kim ngạch cùng kỳ của cả năm 2019 và 2020, với tăng trưởng rất mạnh mẽ trong Quý 2 năm 2021.
Điểm đến chính của hàng xuất khẩu VN trong khối CPTPP tiếp tục là Nhật Bản, với kim ngạch đạt 10 tỉ USD trong nửa đầu năm 2021, tăng 5,66% so với cùng kỳ năm 2020, chiếm khoảng 45,62% tổng kim ngạch xuất khẩu, cao hơn tỉ trọng xuất khẩu đến 4 thị trường Ca-na-đa (11,16%), Úc (9,67%), Ma-lay-xia (9,66%), Me-xi-cô (9,63%) gộp lại. Tuy nhiên, so với cùng kỳ năm 2020, tỉ trọng này giảm hơn 7%, với sự chênh lệch được chia đều cho các thị trường còn lại. Ngoài Nhật Bản, tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu tại các thị trường khác đều rất ấn tượng, phần lớn đạt ngưỡng 42%-52%, với ngoại lệ là Pê-ru (123,58%). Bru-nây là thị trường có kim ngạch xuất khẩu thấp nhất ở mức 4,9 triệu USD, cũng là thị trường duy nhất chứng kiến sự sụt giảm so với cùng kỳ năm 2020 (-57%).
Hàng dệt may; Điện thoại và linh kiện; Máy móc, thiết bị, dụng cụ; Máy vi tinh, sản phẩm điện tử tiếp tục là 4 nhóm ngành hàng xuất khẩu mạnh nhất của ta vào thị trường CPTPP, với kim ngạch xuất khẩu khá đều nhau trong khoảng 1,8 - 2,4 tỉ USD trong nửa đầu năm 2021, tương đương tỷ trọng xuất khẩu khoảng 8,4-10% đối với mỗi nhóm ngành hàng. Trong đó, mặt hàng máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác tăng trưởng mạnh nhất ở mức 40,75%. Nhóm theo sau bao gồm giày dép, thủy sản và gỗ với tổng kim ngạch xuất khẩu nửa đầu 2021 trong khoảng 1 - 1,3 tỉ USD. Kim ngạch xuất khẩu thủy sản tăng chậm nhất trong nhóm này, ở mức 10,67%, so với giày dép (24,26%) và gỗ (29%).
Về nhập khẩu, tổng kim ngạch nhập khẩu của ta từ các nước CPTPP đạt 3,92 tỉ USD trong tháng 6/2021, hay 22,03 tỉ USD trong nửa đầu năm 2021. Tương tự kim ngạch xuất khẩu, các giá trị này đánh dấu sự tăng trưởng mạnh so với cùng kỳ năm 2020, đặc biệt từ cuối Quý 1 và trong suốt Quý 2 năm 2021.
Kim ngạch nhập khẩu chia theo thị trường cho thấy khoảng cách chênh lệnh rõ ràng hơn giữa các thị trường so với kim ngạch xuất khẩu. Hàng hóa từ Nhật Bản đạt 10,7 tỉ USD trong nửa năm 2021, chiếm gần một nửa tỷ trọng xuất khẩu CPTPP, tăng 15% so với cùng kỳ 2020. Tiếp đến là nhóm Ma-lay-xia, Úc, Xinh-ga-po với kim ngạch nhập khẩu trong khoảng 2-4 tỉ USD trong nửa đầu năm 2021. Tốc độ tăng trưởng về kim ngạch nhập khẩu từ các thị trường hầu hết đều tăng trưởng mạnh, trừ Mê-xi-cô (-30% so với nửa đầu năm 2020); và Bru-nây (-37,7%).
Các mặt hàng máy vi tinh, sản phẩm điện tử và linh kiện; máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng khác vừa là sản phẩm xuất khẩu chủ đạo của ta vào thị trường CPTPP, cũng vừa đứng đầu danh sách nhập khẩu của ta từ thị trường này. Trong 6 tháng đầu năm 2021, kim ngạch nhập khẩu 2 mặt hàng này ở mức lần lượt là 3,9 tỉ USD và 3 tỉ USD, tương đương tỷ trọng nhập khẩu 18% và 13,6%. Các mặt hàng nhập khẩu chủ đạo khác từ thị trường CPTPP bao gồm xăng dầu các loại (5%), kim loại thường khác (4,74%), quặng và khoang sản khác (4,55%), than các loại (3,81%).
Nguồn: Bộ Công Thương.
