Tin tức

Tác động kinh tế và phân bổ thu nhập của CPTPP: Trường hợp của Việt Nam - Phần 1/6

Thứ Sáu, 27/10/2023


TÓM TẮT

Báo cáo này đánh giá tác động kinh tế và phân bổ thu nhập của Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ Xuyên Thái Bình Dương (CPTPP, còn gọi là TPP-11). Tác động tiềm tàng của CPTPP được so sánh với Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP) và Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương ban đầu (TPP-12) đối với Việt Nam. Kết quả mô phỏng của chúng tôi cho thấy một số tác động chính của CPTPP như sau:

• Sản lượng: So với kịch bản cơ sở và năm gốc (2011), tính đến năm 2030, theo các giả định thận trọng, GDP của Việt Nam ước tính sẽ tăng 1,1%, so với mức tăng 0,4% của RCEP và 3,6% của TPP-12. Nếu giả định mức tăng năng suất vừa phải, tăng trưởng GDP ước tính lên tới 3,5% so với 6,6% của TPP-12 và 1% của RCEP.

• Xuất nhập khẩu: Với CPTPP, xuất khẩu dự báo sẽ tăng thêm 4,2%; nhập khẩu tăng thêm 5,3% và sẽ tăng cao hơn lần lượt ở các mức 6,9% và 7,6% với kịch bản có năng suất tăng.

• Thuế xuất nhập khẩu: Với CPTPP, mức thuế xuất nhập khẩu bình quân gia quyền áp dụng cho các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu sang các thị trường CPTPP sẽ giảm từ 1,7% xuống 0,2%.

• Hàng rào phi thuế quan (HRPTQ): Những HRPTQ áp dụng đối với Việt Nam tại các thị trường CPTPP dự kiến sẽ giảm bình quân 3,6 điểm phần trăm tính tương đương thuế quan theo giá hàng (ad-valorem).

• Tác động theo ngành: Với CPTPP, mức tăng trưởng cao nhất về sản lượng dự tính sẽ thuộc về các ngành thực phẩm, đồ uống, thuốc lá; may mặc, hàng da; dệt may cùng với tăng trưởng vừa phải ở một số tiểu lĩnh vực sản xuất công nghiệp và dịch vụ. Xuất khẩu tăng dự kiến sẽ đạt cao nhất ở các ngành thực phẩm, đồ uống, thuốc lá; may mặc, hàng da; hóa chất, sản phẩm da và nhựa; thiết bị, phương tiện vận tải; máy móc, thiết bị khác. Nhập khẩu dự kiến sẽ tăng ở tất cả các ngành.

• Tác động phân bổ thu nhập: Đến năm 2030, CPTPP dự kiến sẽ giúp giảm 0,6 triệu người nghèo ở mức chuẩn nghèo 5,50 $/ngày so với kịch bản cơ sở. Tất cả các nhóm thu nhập dự kiến sẽ được hưởng lợi, nhưng mức lợi ích đạt được sẽ cao hơn ở nhóm lao động trình độ cao thuộc tốp 60% nhóm phân bổ thu nhập cao nhất. Điều này càng cho thấy tầm quan trọng của việc đầu tư vào nguồn vốn con người để tận dụng đầy đủ lợi ích từ hiệp định.

Cho đến nay vẫn còn nhiều điểm chưa rõ như những điều khoản cụ thể nào sẽ được đưa vào CPTPP và RCEP, cũng như tác động đến việc cải thiện khả năng tiếp cận thị trường hay giảm HRPTQ. Phân tích của chúng tôi sử dụng những giả định tối ưu có được, nhưng tác động của các hiệp định thương mại tự do (FTA) suy cho cùng sẽ vẫn phụ thuộc vào những cam kết cụ thể và tình hình thực hiện cam kết. Kết quả mô phỏng trình bày trong báo cáo này là các con số ước tính ở ngưỡng thấp về những lợi ích đạt được từ việc mở cửa thị trường, vì nhiều nội dung của các FTA không đưa được vào mô hình, như tác động đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài, những lợi ích về năng suất (nội sinh) hay phát triển sản phẩm xuất khẩu mới. Ngoài ra, mô hình cũng không tính đến tác động của những biện pháp như hài hòa các tiêu chuẩn lao động hay môi trường, các điều khoản về quyền sở hữu trí tuệ, doanh nghiệp nhà nước, cơ chế giải quyết tranh chấp đầu tư giữa nhà nước và nhà đầu tư hay đấu thầu, mua sắm công.  

I. GIỚI THIỆU

Việt Nam hiện đang đánh giá những lợi ích kinh tế thu được từ việc hội nhập sâu rộng vào thương mại khu vực theo các Hiệp định thương mại tự do có thể tham gia. Hai hiệp định lớn mới gồm có Hiệp định CPTPP sẽ được ký vào tháng 3/2018 sau khi Mỹ rút khỏi Hiệp định Đối tác Xuyên Thái bình dương (TPP) từ tháng 1/2017 và Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP), hiện đã đến vòng đàm phán thứ 21.

Ở thời điểm còn nhiều điều chưa chắc chắn, báo cáo này sẽ đóng góp vào những nội dung thảo luận hiện nay về việc tiếp tục tăng cường hội nhập thương mại của Việt Nam bằng cách đánh giá những tác động đối với toàn bộ nền kinh tế và bức tranh phân bổ thu nhập để giúp cân nhắc việc có nên tiếp tục tham gia CPTPP hay không dù Mỹ đã rút ra khỏi hiệp định ban đầu, cũng như tiếp tục đàm phán RCEP. Bằng việc áp dụng mô hình cân bằng tổng thể khả toán động toàn cầu (CGE) kết hợp với mô hình mô phỏng vi mô, chúng tôi đánh giá được đối tượng nào ở Việt Nam sẽ có lợi thế hay gặp bất lợi. Điều rõ ràng là lợi ích từ thương mại không được phân chia bình đẳng giữa tất cả các tầng lớp dân cư, vì vậy, bằng cách phân tích về phân bổ thu nhập của từng FT, báo cáo cho phép mở rộng phạm vi thảo luận về việc thực hiện những chính sách nhằm hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của FTA.

Báo cáo này có bố cục như sau: Phần II trình bày những nội dung chính về phương pháp sử dụng trong mô phỏng. Phần này cũng trình bày những giả định chính sử dụng trong mô hình CGE và mô hình mô phỏng vi mô, đồng thời xác định những yếu tố tác động trong từng kịch bản, lượng hóa mức giảm thuế quan và các hàng rào phi thuế quan dự kiến theo từng ngành của Việt Nam và các nước tham gia FTA khác. Phần III trình bày các kết quả mô phỏng trên phạm vi toàn nền kinh tế, những tác động về chuyển hướng thương mại và tạo lập thương mại, các tác động về phân bổ thu nhập của từng hiệp định FTA. Phần IV là phần kết luận.

II. PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH

Các kịch bản sử dụng trong mô hình cân bằng tổng thể

Báo cáo sử dụng mô hình cân bằng tổng thể khả toán động toàn cầu (CGE) tên gọi là LINKAGE, kết hợp với mô hình mô phỏng vi mô để nghiên cứu tác động của các Hiệp định thương mại tự do tiềm năng đối với nền kinh tế Việt Nam. Báo cáo phân chia tác động của các hiệp định thương mại theo loại hình hộ gia đình và đối tượng lao động. Sự phân chia như vậy là một phương thức quan trọng để xác định tác động giảm nghèo và phân bổ thu nhập của bất kỳ hiệp định thương mại nào. Để mô hình hóa tác động phân bổ thu nhập, chúng tôi sử dụng Mô hình khung động lực phân phối thu nhập toàn cầu (GIDD). GIDD là một khung mô phỏng vĩ mô-vi mô từ trên xuống, sử dụng để phân bổ các kết quả kinh tế vĩ mô của mô hình CGE cho các hộ gia đình cùng với Điều tra Mức sống Hộ gia đình Việt Nam (ĐTMSHGĐVN 2012). Mô hình kinh tế vi mô sẽ thực hiện phân bổ tác động đồng thời bảo đảm sự đồng bộ với mô hình hành vi chung quan sát được từ mô hình vĩ mô. Hai mô hình được liên kết chủ yếu thông qua các thay đổi về nguồn cung lao động, sự hình thành kỹ năng, và thu nhập thực tế. Về nguồn cung lao động, các mô hình vĩ mô và vi mô đều đưa ra dự báo về nguồn cung lao động có kỹ năng và không có kỹ năng theo các giai đoạn. Những dự báo này được thực hiện dựa trên các dự báo dân số và xu hướng giáo dục thông thường. GIDD cũng tính đến yếu tố tái phân bổ lao động giữa các ngành trong bối cảnh động. Phần mô phỏng về lao động di cư sẽ lựa chọn và tái phân bổ đối tượng lao động từ các ngành nông nghiệp và phi nông nghiệp theo những thay đổi về cầu lao động. Sau cùng, ở phía thu nhập, mô hình GIDD tích hợp các thay đổi tính được qua mô phỏng từ CGE về mức tăng lương của lao động có trình độ, tăng thu nhập, thay đổi giá tương đối của lương thực, thực phẩm và các mặt hàng phi lương thực.

Tác động của các hiệp định thương mại được tính toán bằng cách xây dựng một kịch bản cơ sở và 3 kịch bản giả định để mô phỏng tác động của mức giảm thuế quan và HRPTQ theo CPTPP, TPP, RCEP. Kịch bản cơ sở mô tả trạng thái bình thường của nền kinh tế không có các hiệp định mới. Ngoài ra, trong mô hình của chúng tôi, các dự báo dân số và giáo dục cũng được đưa vào kịch bản cơ sở và đóng một vai trò quan trọng trong việc làm thay đổi nguồn cung tương đối của lao động có kỹ năng so với lao động không có kỹ năng theo từng nước. Nguồn cung yếu tố sản xuất là một chỉ báo quan trọng về lợi thế so sánh giữa các quốc gia. Trong kịch bản cơ sở, các cam kết hiện tại về giảm thuế quan sẽ được thực hiện. Vì thế, có hai yếu tố chính giúp phân biệt các kịch bản giả định so với kịch bản cơ sở: a) số lượng các nước tham gia trong mỗi hiệp định; b) tác động ròng của việc giảm thuế quan và hàng rào phi thuế quan. Kết quả mô phỏng trình bày trong báo cáo này là các con số ước tính ở ngưỡng thấp về những lợi ích đạt được nhờ mở cửa thị trường, vì nhiều nội dung của các FTA không đưa được vào trong mô hình, như tác động đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài, những lợi ích về năng suất mang tính nội sinh, hay phát triển sản phẩm xuất khẩu mới. Mô hình khung cũng không đề cập đến tác động của những biện pháp như đấu thầu, mua sắm công, hài hòa các tiêu chuẩn lao động hay môi trường, trong khi đây thường là những yếu tố có tác động quan trọng đến năng suất và mức tăng nguồn phúc lợi.

Những nước tham gia ký kết của từng hiệp định

Hiệp định TPP ban đầu gồm 12 nền kinh tế tham gia đàm phán ở ba châu lục là Châu Mỹ, Châu Á và Châu Đại dương (Ôtxtrâylia). Về phía Châu Mỹ, các nước tham gia có các nước thành viên hiệp định Thương mại tự do Bắc Mỹ - NAFTA (Mỹ, Canađa, Mêhicô), cùng với Pêru và Chilê. Nền kinh tế lớn nhất trong TPP ở Châu Á là Nhật Bản, tiếp đến là Malaixia, Việt Nam, Singapo, Brunây. Đầu năm 2017, Mỹ - nền kinh tế lớn nhất trong khối TPP, chính thức tuyên bố rút khỏi hiệp định. Những nước còn lại mở lại các cuộc đàm phán về Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ Xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) nhằm cố gắng duy trì những mục tiêu đầy tham vọng của hiệp định TPP-12 ban đầu. Trong khi đó, hiệp định RCEP là một hiệp định thương mại tự do (được khởi xướng giữa 10 quốc gia thành viên của Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á - ASEAN gồm Brunây, Campuchia, Inđônêxia, Lào, Malaixia, Myanma, Philipin, Singapo, Thái Lan, Việt Nam) và 6 quốc gia mà ASEAN đã ký hiệp định thương mại tự do (Ốtxtrâylia, Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Niu Dilân). Đàm phán RCEP chính thức bắt đầu từ tháng 11/2012 và hiện đã đến vòng đàm phán thứ 21. Hình 1 trình bày sơ đồ các nước tham gia của từng hiệp định và cả hai hiệp định.

Do trong mô hình, lợi ích thu được từ các kịch bản chỉ tính đến tác động tái phân bổ sản xuất tới những ngành có hệ số chi phí-hiệu quả cao nhất mà không tính đến những lợi ích khác về tăng năng suất nhờ tự do hóa thương mại và mở cửa nền kinh tế, nên để tính toán được cả yếu tố này, chúng tôi sử dụng kết quả nghiên cứu của Topalova & Khandelwal (2011) với giả định rằng bảo hộ thương mại giảm 10% thì sẽ làm tăng năng suất được 0,5 điểm phần trăm. Vì thế, mỗi một kịch bản trong 3 kịch bản về FTA này đều có một phiên bản khác để hình thành nên ngưỡng cao có thể đạt được về mức tăng phúc lợi, bao gồm tăng năng suất hay kích thích tăng năng suất, căn cứ vào mức giảm thuế quan, HRPTQ đa phương tính theo bình quân gia quyền có trọng số là kim ngạch thương mại giữa mỗi quốc gia.


Bài viết liên quan