Tác động chuyển hướng thương mại và tạo lập thương mại
Trong kịch bản cơ sở, dự báo xuất khẩu của Việt Nam sẽ tăng 4,32% hàng năm, và thị trường xuất khẩu được đa dạng hóa. Tổng kim ngạch xuất khẩu đến năm 2030 sẽ đạt 311,1 tỉ US$ so với mức ước tính 179,5 tỉ US$ theo mô phỏng của năm 2017. Tỉ trọng theo quốc gia của hàng xuất khẩu của Việt Nam lớn nhất tính đến năm 2030 là Mỹ, chiếm 17,4% tổng kim ngạch xuất khẩu, tiếp đến là Trung Quốc với 13,2%. Tính theo khối, những nước thuộc nhóm thành viên RCEP sẽ chiếm 21,9%4 , Liên minh châu Âu là 16,7% và “các nước thành viên chung TPP-RCEP” là 14,8%5 . Quy mô xuất khẩu trong các hiệp định FTA được mô phỏng sẽ tăng lên. Ví dụ, trong trường hợp CPTPP tính đến năm 2030, lượng hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam sẽ tăng 13,1 tỉ US$ so với kịch bản cơ sở. Tương tự, xuất khẩu trong các kịch bản TPP và RCEP sẽ tăng tương ứng 59,2 tỉ US$ và 11,2 tỉ US$.
Các hiệp định FTA thường có xu hướng làm tăng xuất khẩu sang các nước ký kết hiệp định. Ví dụ, trong CPTPP, tính đến năm 2030, xuất khẩu sang các nước CPTPP sẽ tăng từ 54 lên 80 tỉ US$, chiếm 25% tổng lượng xuất khẩu. Xuất khẩu sang các nước thành viên CPTPP sẽ tăng ở các ngành “thực phẩm, đồ uống, thuốc lá”, “may mặc, hàng da” và “dệt may”, để tính chung các ngành này sẽ tăng xuất khẩu lần lượt được 10,1, 6,9 và 0,5 tỉ US$. Ngược lại, những ngành xuất khẩu có mức giảm ròng lớn nhất sẽ là “nông nghiệp” (- 1,6 tỉ US$), “sản xuất công nghiệp khác” (- 1,2 tỉ US$), “thiết bị điện” (- 0,5 tỉ US$), “kim loại” (- 0,4 tỉ US$), chủ yếu xuất khẩu sang nhóm các nước “RCEP khác” và Trung Quốc. Kết quả mô phỏng cho thấy trong CPTPP, danh mục xuất khẩu giữa các ngành sẽ tập trung nhiều vào “may mặc, hàng da” và “thực phẩm, đồ uống, thuốc lá” với tỉ trọng xuất khẩu tăng lên lần lượt 22,6% và 13,6%, hay tăng 1,3 và 2,8 điểm phần trăm.
Trong trường hợp TPP-12, tính đến năm 2030, Mỹ sẽ tăng gấp đôi tỉ trọng nhập hàng xuất khẩu từ Việt Nam lên mức 37%, với mức tăng tuyệt đối 83 tỉ US$. Tương tự, Việt Nam sẽ tăng xuất khẩu sang “các nước TPP-12 khác ở Bắc Mỹ và Nam Mỹ” thêm 11 tỉ US$ so với kịch bản cơ sở. Ngược lại, xuất khẩu sẽ giảm đối với Trung Quốc (- 8 tỉ US$), “các nước thành viên RCEP khác” (- 13 tỉ US$), EU (- 8 tỉ US$), “các nước khác trên thế giới” (- 7 tỉ $). Kết quả mô phỏng cho thấy trong trường hợp TPP-12, danh mục xuất khẩu giữa các ngành sẽ tập trung ưu tiên ngành “may mặc, hàng da” khi ngành này tăng tỉ trọng trong tổng xuất khẩu thêm 14,7 điểm phần trăm, từ 21,3% lên 36% trên tổng mức xuất khẩu. Tính đến năm 2030, mức tăng tỉ trọng xuất khẩu này sẽ tương đương với tăng 54,4 tỉ US$ xuất khẩu đối với ngành “may mặc, hàng da”. Dù tăng thấp hơn nhưng ngành dệt may cũng sẽ đạt 11,9% tổng kim ngạch xuất khẩu, so với 7,9% của kịch bản cơ sở. Trong trường hợp TPP-12, tính đến năm 2030, ngành dệt may sẽ có mức tăng 15 tỉ US$ so với kịch bản cơ sở.




Đa dạng hóa xuất khẩu thường được tính bằng Chỉ số Herfindahl về xuất khẩu ở cấp độ ngành và thị trường. Chỉ số Herfindahl là chỉ báo về mức độ tập trung với giá trị cao nhất là 1, tức tập trung tuyệt đối, và thấp nhất là 0. Việt Nam có danh mục hàng hóa xuất khẩu đa dạng, cả về thị trường và lĩnh vực xuất khẩu so với các đối tác thương mại của mình (VD: xem Hình 16). Trong trường hợp CPTPP so với kịch bản cơ sở, kết quả mô phỏng cho thấy mức độ đa dạng hóa xuất khẩu sẽ bị ảnh hưởng vừa phải với mức độ tập trung xuất khẩu theo ngành tăng 6,5%, và mức độ đa dạng hóa xuất khẩu theo thị trường tăng 10,6%. Trái lại, kết quả mô phỏng cho thấy TPP-12 sẽ làm tăng mức độ tập trung xuất khẩu ở cả hai phương diện thị trường và ngành, lần lượt tăng 71% và 61%. Mức độ tập trung xuất khẩu tăng mạnh chủ yếu do xuất khẩu hàng may mặc được tập trung sang thị trường Mỹ.
Tác động giảm nghèo và phân bổ
Ở cấp độ ngành, giảm rào cản thương mại và tăng tiêu dùng, sản xuất, xuất khẩu là những yếu tố dẫn đến tăng lợi ích kinh tế của từng hiệp định FTA. Tăng trưởng ngành quyết định cầu về lao động và mức lương. Phân tích trong số các kịch bản được phân tích trong báo cáo, cho thấy đối với một hiệp định thương mại tham vọng hơn, có tầm phủ rộng lớn hơn (TPP-12), mặc dù có mức tăng.cao hơn, nhưng có xu hướng làm tăng mức lương của lao động có kỹ năng và tập trung lợi ích vào những phân khúc dân cư có trình độ học vấn cao và giàu có hơn. Tính đến năm 2030, theo kịch bản TPP-12, thu nhập hộ gia đình đối với nhóm thu nhập cao nhất (chia theo thập phân vị) sẽ tăng 8% so với kịch bản cơ sở: 5,8 điểm phần trăm tăng cao hơn so với các hộ ở nhóm thu nhập nghèo nhất. Mức chênh lệch phần trăm này theo kịch bản CPTPP và RCEP lần lượt là 2 và 1 điểm phần trăm. Do vậy, CPTPP và RCEP có lợi hơn cho người nghèo xét về mặt tương đối, nhưng tổng mức tăng thu nhập sẽ thấp hơn nhiều.
Phần này của báo cáo sẽ phân tích tác động về xóa đói giảm nghèo tiềm năng của CPTPP so với TPP-12 và RCEP. Báo cáo sử dụng các ngưỡng nghèo 3,20 $/ ngày và 5,50 $/ngày, thay vì mức nghèo cùng cực toàn cầu là 1,90 $/ngày, vì mức này sẽ phù hợp hơn khi Việt Nam đang trên đà trở thành một nước thu nhập trung bình cao. Mức nghèo cùng cực được tính bằng mức nghèo tuyệt đối 1,90 $/ngày theo ngang giá sức mua (PPP). Mức nghèo tuyệt đối này tuy phù hợp với đa số các nước thu nhập thấp, nhưng kinh nghiệm cho thấy các nước thu nhập trung bình cần những khái niệm phù hợp hơn để đo lường tình trạng nghèo đói. Nhiều nghiên cứu cho thấy khi các nước đạt đến mức thu nhập đầu người cao hơn, họ sẽ tăng ngưỡng nghèo tối thiểu hoặc sử dụng mức nghèo tương đối (Ravallion & Chen, 2011). Với cùng nhận định này, Ngân hàng Thế giới đã công bố một bộ các mức chuẩn nghèo bổ sung là 3,20 $/ngày PPP đối với nước thu nhập trung bình thấp và 5,50 $/ngày PPP đối với nước thu nhập trung bình cao. Trong bối cảnh dự báo triển vọng tương lai của báo cáo này, và do Việt Nam sẽ trở thành nước có thu nhập trung bình cao theo xu hướng hiện nay, chúng tôi đã lựa chọn nghiên cứu tình trạng đói nghèo dựa vào hai mức chuẩn nghèo trên.
Hình 18 sau đây thể hiện phân phối thu nhập đầu người của Việt Nam vào các năm 2015 và 2030 theo các xu hướng hiện nay. Có thể thấy rằng thu nhập đầu người sẽ tăng, đường phân phối thu nhập không chỉ dịch chuyển sang phải mà còn thay đổi hình dạng do những thay đổi theo mô phỏng về dân số và trình độ học vấn. Vùng diện tích phía dưới mỗi đường phân phối thu nhập và ở về bên trái của từng mức chuẩn nghèo thể hiện tỉ lệ người sống ở dưới ngưỡng nghèo.
