Theo tính toán của Ngân hàng Thế giới, tỉ lệ nghèo năm 2014 là 11,6%, nếu tính bằng tỉ lệ người nghèo theo mức chuẩn nghèo 3,20 $/ngày PPP. Con số này gần bằng với tỉ lệ 13,5% khi sử dụng mức nghèo quốc gia của Việt Nam6 . Ngược lại, nếu sử dụng mức chuẩn nghèo ở ngưỡng cao cho các nước thu nhập trung bình cao là 5,50 $/ngày PPP, tỉ lệ nghèo sẽ là 36,3%. Hình 19 dưới đây cho thấy, trong vòng 15 năm tới, theo các xu hướng như hiện nay, dự báo tỉ lệ nghèo sẽ giảm đều đặn xuống mức 4,5 nếu sử dụng mức chuẩn nghèo 3,20 $/ngày PPP và 15,0% nếu sử dụng mức chuẩn nghèo 5,50 $/ngày PPP. Có thể thấy rằng mức chuẩn nghèo gần nhất với đỉnh của đường phân phối thu nhập sẽ tối đa hóa độ co giãn của mức giảm nghèo theo tăng trưởng7 , vì thế chúng tôi sẽ trình bày kết quả về xóa đói giảm nghèo cho các năm 2025 và 2030, trong đó 2025 là thời điểm mà độ co giãn của mức giảm nghèo theo tăng trưởng cao hơn.
Tác động giảm nghèo, được tính bằng con số hàng triệu người được thoát nghèo tính đến năm 2025 và 2030, trong từng kịch bản về FTA, được biểu diễn trong Hình 21 dưới đây, trong đó sử dụng các giả định về năng suất bình thường. CPTPP, cũng như hai hiệp định còn lại, sẽ dẫn đến những kết quả tích cực về giảm nghèo ở cả hai mức chuẩn nghèo 3,20 $/ngày và 5,50 $/ngày. Nhìn chung, các hiệp định thương mại tạo ra nhiều cơ hội nhất ở những ngành mà người nghèo hiện đang làm việc nhiều nhất sẽ dẫn đến mức tăng lợi ích tương đối lớn nhất cho người nghèo. Về mặt này, CPTPP sẽ dẫn đến những kết quả giảm nghèo tích cực, dù còn ở mức khiêm tốn. Tính đến các năm 2025 và 2030, CPTPP sẽ giúp thoát nghèo (với mức chuẩn nghèo 5,50 $/ngày tương ứng cho 0,9 và 0,6 triệu người. Tác động này thấp hơn đôi chút so với kết quả mà RCEP có thể đạt được và chỉ bằng một nửa của TPP-12. Một điều dễ thấy là TPP-12 sẽ có tác động lớn nhất về giảm nghèo, do có tác động thúc đẩy tăng trưởng lớn nhất. Tính đến năm 2030, hiệp định này sẽ giúp thoát nghèo (với mức chuẩn nghèo 5,50 $/ngày PPP) cho 1,4 triệu người so với kịch bản cơ sở. Với mức chuẩn nghèo 3,20 $/ngày, chênh lệch về tác động giảm nghèo giữa các kịch bản sẽ khiêm tốn hơn, và đến năm 2025, RCEP sẽ đạt mức giảm nghèo tương đương với CPTPP. Những con số này cho thấy tầm quan trọng của việc nhìn xa hơn tác động đối với các mức chuẩn nghèo tuyệt đối và quan tâm hơn đến tác động về phân bổ thu nhập.


Nếu thiếu các chính sách về giới trong tương lai, kịch bản cơ sở cho thấy sự gia tăng khoảng cách giới8 ở mức vừa phải tạo ra bởi mức tăng chênh lệch về lương của lao động có kỹ năng. Theo các giả định của kịch bản cơ sở, đến năm 2030, những hộ gia đình trình độ kỹ năng cao hơn trong tốp 60% của phân phối thu nhập sẽ được hưởng lợi nhờ mức tăng lương cao hơn so với các hộ gia đình có trình độ kỹ năng thấp hơn thuộc nhóm 40% thu nhập thấp nhất – thể hiện mức chênh lệch 4,3% vào năm 2030. Những lợi ích này sẽ chủ yếu dành cho các lao động là nam giới, những người có xu hướng được nhận mức lương ban đầu cao hơn so với nữ giới (xem Hình 22). Việc thực hiện CPTPP sẽ tạo thêm những tác động tiêu cực nhưng ở mức nhỏ về khoảng cách giới, như mô tả trong Hình 23. Đến năm 2030, khoảng cách giới về tiêu dùng hộ gia đình bình quân đầu người sẽ tăng đối với các hộ gia đình trong nhóm 40% thu nhập thấp nhất, đặc biệt các lao động có kỹ năng sẽ tăng 0,25 điểm phần trăm so với kịch bản cơ sở. Các tác động về giới mà CPTPP tạo ra đối với tốp 60% thu nhập cao nhất trong phân phối thu nhập sẽ không đáng kể.
Những người ở các nhóm cao trong phân phối thu nhập được hưởng lợi nhiều hơn so với người nghèo, vì hiệp định tạo ra nhiều cơ hội kinh tế hơn cho lao động có kỹ năng. Các Hình 22 và Hình 23 dưới đây mô tả đường cong tỉ lệ tăng trưởng so với kịch bản cơ sở của từng FTA. Các đường đồ thị chỉ ra mức tăng tuyệt đối về thu nhập đầu người so với kịch bản cơ sở ở từng nhóm phân vị trong phân phối thu nhập. Hình 22 ở phía bên phải biểu diễn các đường đồ thị với các giả định bình thường về năng suất, và thấp hơn nhiều so với Hình 23 ở phía trái, trong đó biểu diễn các đường cong tỉ lệ tăng trưởng với giả định kích thích tăng năng suất. Mức tăng biểu thị trên đường cong tỉ lệ tăng trưởng có được từ mô phỏng vi mô với số liệu Điều tra Mức sống Hộ gia đình Việt Nam (2012). Mô phỏng vi mô có đưa vào các cú sốc về kinh tế vĩ mô của từng FTA, và mô phỏng tác động đối với a) tái phân bổ lao động trong từng ngành, b) thay đổi mức lương tương đối, c) thay đổi mức tiêu dùng của hộ gia đình.
Mặc dù TPP-12 và CPTPP có những tác động tích cực lớn hơn so với RCEP, nhưng tính bình quân, hai hiệp định này vẫn cho mức tăng thu nhập tương đối cao hơn cho các đối tượng ở nhóm 60% dân số thu nhập cao so với 40% dân số thu nhập thấp. Ngược lại, RCEP theo giả định sẽ dẫn tới sự phát triển của những ngành có mức độ tập trung lao động lớn hơn ở nhóm 40% thu nhập thấp trong phân bổ thu nhập, gồm cả nông nghiệp và thực phẩm. Nếu kết quả cuối cùng của RCEP phù hợp với các tính toán trên, những lợi ích mà hiệp định này đem lại cho người nghèo sẽ lớn hơn tương đối so với CPTPP hay TPP-12.
Phụ lục ở cuối báo cáo này sẽ đi sâu hơn về quy trình tính toán mô phỏng để xây dựng các đường đồ thị. Cụ thể, Hình 27 trong phần phụ lục sẽ phân tích đường cong tỉ lệ theo trình tự từng bước mô phỏng vi mô. Nhìn chung, thay đổi về mức lương tương đối sẽ có tác động lớn nhất tới phân phối thu nhập. Trong tất cả các kịch bản, tác động của mức lương tương đối sẽ đi ngược lại so với kịch bản cơ sở, nghĩa là mức tăng thu nhập tương đối sẽ có xu hướng đem lại nhiều lợi ích hơn cho những tầng lớp dân cư có trình độ học vấn cao hơn, giàu có hơn. Mức tăng lương tương đối tỉ lệ thuận với tăng tiêu dùng hộ gia đình và mở cửa thị trường. Nói cách khác, những hiệp định thương mại nhiều tham vọng hơn thường sẽ tạo ra tăng trưởng mạnh hơn, nhưng khi nền kinh tế phát triển thì sẽ làm tăng nhu cầu về lao động có trình độ và tăng bất bình đẳng thu nhập. Những kết quả này mặc dù rất đúng với các giả định về sự hình thành nguồn vốn con người, nhưng cũng góp phần cho thấy rõ tầm quan trọng của việc sử dụng các chính sách điều chỉnh làm công cụ để bù đắp cho những đối tượng bị tụt lại phía sau cũng như xây dựng các cơ chế hỗ trợ trong nước để hướng đến những hiệp định thương mại có mục tiêu lớn hơn nữa, kết hợp với đầu tư vào nguồn vốn con người, tạo thuận lợi cho sự dịch chuyển từ những ngành có mức tăng trưởng âm hay thấp sang những ngành có nhiều cơ hội kinh tế hơn.
