Tin tức

Tác động kinh tế và phân bổ thu nhập của CPTPP: Trường hợp của Việt Nam - Phần 6/6

Thứ Sáu, 27/10/2023


IV. KẾT LUẬN

Các kết quả cho thấy CPTPP vẫn là một hiệp định đáng cân nhắc, mặc dù việc không còn sự tham gia của Mỹ khiến lợi ích có thể thu được sẽ giảm nhiều. Mức tăng phúc lợi có thể đạt được từ RCEP nhỏ hơn nhiều so với CPTPP hay TPP-12, nhưng vẫn là đáng kể. CPTPP có khả năng sẽ kéo theo tăng FDI và tiếp tục mở rộng các ngành dịch vụ, dù những tác động này không được tính toán trong mô phỏng của chúng tôi vì báo cáo này chỉ tập trung chủ yếu vào khả năng tiếp cận thị trường đối với hàng hóa và các luồng lưu chuyển thương mại dịch vụ hiện nay. Cần nhấn mạnh rằng kết quả so sánh giữa RCEP, CPTPP và TPP phần nào còn phụ thuộc vào giả định về mức độ mở cửa thị trường của RCEP, do vậy mức lợi ích thu được dù tương đối thấp nhưng có thể sẽ cao hơn nếu hiệp định đạt tới mức độ tham vọng lớn hơn. 

Trong trường hợp Việt Nam, lợi ích thu được sẽ tập trung chủ yếu vào một số ngành: Ngành may mặc sẽ có mức lợi ích nhất trong tất cả các kịch bản, ngành dệt may sẽ có mức tăng lớn hơn trong TPP, ngành thực phẩm, đồ uống, thuốc lá sẽ có sản lượng và kim ngạch xuất khẩu cao nhất trong CPTPP. Như dự tính, CPTPP sẽ ít hấp dẫn hơn TPP, đồng thời đem lại ít khả năng tăng sản lượng và xuất khẩu hơn. Tuy nhiên, hiệp định này sẽ dẫn tới mức độ đa dạng hóa xuất khẩu lớn hơn nếu tính trên thị trường xuất khẩu. Mặc dù tất cả các nhóm thu nhập theo dự kiến đều được hưởng lợi từ CPTPP, những lao động có kỹ năng cao trong tốp 60% thu nhập cao nhất sẽ được hưởng lợi nhiều hơn. Điều này cho thấy tầm quan trọng của việc đầu tư vào phát triển nguồn vốn con người để tận dụng đầy đủ những lợi ích từ hiệp định. 

Ngoài các vấn đề “thương mại” trong Hiệp định, CPTPP có thể khuyến khích và thúc đẩy cải cách trong nước ở nhiều lĩnh vực như cạnh tranh, dịch vụ (bao gồm dịch vụ tài chính, viễn thông, gia nhập tạm thời của các nhà cung cấp dịch vụ), hải quan, thương mại điện tử, môi trường, mua sắm chính phủ, sở hữu trí tuệ, đầu tư, tiêu chuẩn lao động, các vấn đề pháp lý, tiếp cận thị trường cho hàng hoá, quy tắc xuất xứ, các biện pháp phi thuế quan (bao gồm các biện pháp SPS và TBT), các biện pháp khắc phục thương mại v.v.. CPTPP sẽ góp phần thúc đẩy sự minh bạch và hỗ trợ việc hình thành các thể chế hiện đại ở Việt Nam.

Trong dài hạn, lợi ích đạt được không chỉ là tăng xuất khẩu mà còn bao gồm tăng hàm lượng công nghệ của hàng xuất khẩu. Đầu tư tăng nhờ các lợi ích tiềm năng của CPTPP có thể làm cho xuất khẩu ít phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu hơn, thay vào đó sẽ dựa nhiều hơn vào chuỗi cung ứng trong nước để khắc phục các hạn chế của quy tắc xuất xứ. Phản ứng này sẽ giúp thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa có giá trị gia tăng, khuyến khích các công ty tư nhân trong nước hội nhập tích cực hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu và do đó thúc đẩy phát triển khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNNVV).

Dự kiến sẽ có sự chuyển hướng dòng vốn đầu tư nước ngoài mạnh hơn sang các ngành công nghiệp thượng nguồn của các ngành được hưởng lợi nhiều như dệt, may mặc và da để tận dụng CPTPP. Tuy nhiên, việc FDI tăng lên trong các ngành công nghiệp thượng nguồn không phải là không đi kèm chi phí, do vậy Việt Nam cần đưa ra những chính sách khôn ngoan để lựa chọn công nghệ tiên tiến và dòng vốn FDI thân thiện với môi trường để tối ưu hóa tác động của hiệp định này.

Kinh nghiệm sau khi gia nhập WTO cho thấy Việt Nam không thể tận dụng ngay lập tức lợi ích của việc gia nhập WTO để thu hút và tiếp nhận dòng vốn FDI lớn do thiếu năng lực để tạo điều kiện cho các công ty có liên kết toàn cầu tham gia chuỗi giá trị cao do chi phí hậu cần cao và cơ sở hạ tầng đường xá, điện, cảng biển, dịch vụ hậu cần, v.v.. còn yếu kém. Các vấn đề phía sau biên giới. Những thách thức này cho thấy sự cần thiết phải cải thiện khả năng kết nối để hội nhập vào chuỗi giá trị toàn cầu (GVCs) và giữ chi phí thương mại ở mức thấp. Các doanh nghiệp tư nhân và nước ngoài trong nước tham gia vào các GVC cần phải có khả năng di chuyển hàng hoá qua biên giới một cách hiệu quả và đáng tin cậy. Điều này đòi hỏi cần có cả cơ sở vật chất và thể chế tốt.

Các kết quả nghiên cứu gần đây cho thấy phần lớn các chi phí tuân thủ cao đều liên quan đến các hàng rào phi thuế quan. Mặc dù đã có những tiến bộ gần đây trong cải cách Hải quan và việc thực hiện Cơ chế Một cửa Quốc gia và ASEAN, \ nhưng chi phí tuân thủ về thời gian và tiền bạc để thông quan hàng hoá trước và tại biên giới ở Việt Nam vẫn cao. Việc giải quyết vấn đề nút cổ chai quan trọng này sẽ giúp thực hiện các cam kết không chỉ trong khuôn khổ CPTPP mà cả trong Hiệp định Thuận lợi hoá Thương mại của WTO. 

PHỤ LỤC - PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH

Kế thừa các kết quả nghiên cứu mới đây của Petri và các tác giả khác (2016) và Ngân hàng Thế giới (2016a, 2016b), nền tảng của mô hình kinh tế áp dụng là mô hình cân bằng tổng thể khả toán động toàn cầu có tên gọi là LINKAGE (van der Mensbrugghe, 2011 và 2013). Đối tượng được phân tích bao gồm 17 lĩnh vực sản xuất và 35 quốc gia/khu vực (xem Bảng A1), trong đó thực hiện mô phỏng tác động từ cải cách chính sách cho đến năm 2030, bao gồm các biện pháp giảm thuế quan và hàng rào phi thuế quan (HRPTQ) đối với thương mại hàng hóa và dịch vụ.

Mô hình khung này cho phép tích hợp các quan hệ tương tác phức tạp về chênh lệch năng suất ở cấp quốc gia, lĩnh vực hay yếu tố sản xuất, thay đổi nguồn cầu khi thu nhập tăng, cũng như các thay đổi về lợi thế so sánh và luồng lưu chuyển thương mại sau khi mở cửa thị trường. Mô hình CGE động đa vùng sử dụng trong báo cáo tính đến đồng thời các yếu tố tương tác giữa người sản xuất, hộ gia đình và chính phủ tại nhiều thị trường sản phẩm và giữa một số quốc gia, khu vực trên thế giới. Dù đã tích hợp, xây dựng một số tính năng linh hoạt như tích lũy vốn thông qua những thay đổi về tiết kiệm và đầu tư, mô hình vẫn còn thiếu các vòng lặp phản hồi động tích cực về tích tụ tri thức, hấp thu công nghệ nước ngoài thông qua đầu tư FDI nhờ TPP, đồng thời cũng không cho phép mô hình hóa lợi nhuận từ xuất khẩu. Vì thế, những lợi ích thu được mô phỏng trong báo cáo này có thể chưa tính toán được đầy đủ mức tác động cuối cùng và chỉ thể hiện mức ngưỡng thấp của các lợi ích có thể đạt được. Ngược lại, năng suất tăng nhờ TPP ở các nước thành viên có thể dẫn đến giảm năng lực cạnh tranh của những nước không phải thành viên và gây thêm những ảnh hưởng tiêu cực đối với các nước không tham gia. Ngoài ra, mục tiêu hài hòa các tiêu chuẩn lao động, môi trường trong khuôn khổ TPP cũng có tác động quan trọng đối với các nước đang phát triển tham gia hiệp định, nhưng những quá trình này lại không được tích hợp rõ ràng trong mô hình nghiên cứu. Mặc dù việc hài hòa những tiêu chuẩn này mang lại lợi ích xã hội, môi trường, nhưng cũng có thể làm suy yếu năng lực cạnh tranh của những doanh nghiệp hiện còn chưa đáp ứng được các tiêu chuẩn đó, từ đó làm giảm những lợi ích kinh tế có thể thu được.  

Linkage: mô hình cân bằng tổng thể khả toán động toàn cầu (CGE)

Đặc điểm cơ bản của mô hình lặp lại phần lớn mô hình CGE động toàn cầu tiêu chuẩn. Sản xuất được xác định là một loạt các hàm co giãn thay thế không đổi (CES) của các yếu tố đầu vào như lao động không có kỹ năng, có kỹ năng, vốn, đất đai, tài nguyên thiên nhiên (theo từng ngành), năng lượng, các nguyên liệu đầu vào khác. LINKAGE sử dụng cấu trúc sản xuất truyền thống cho phép luân chuyển vốn linh hoạt-bán linh hoạt. Trên thị trường lao động, chúng tôi giả định tỉ lệ thất nghiệp và tỉ lệ tham gia thị trường lao động là không đổi.

Nhu cầu đối với từng đối tượng trong nước được xác định ở cấp độ có tên gọi là Armington, tức là cầu của một nhóm hàng hóa sản xuất trong nước và nhập khẩu. Cầu Armington được tính cộng dồn đối với tất cả các đối tượng và phân bổ ở cấp quốc gia giữa sản xuất trong nước và nhập khẩu theo nơi xuất xứ.

Kịch bản tiêu chuẩn áp dụng 3 nguyên tắc đóng. Một là, chi tiêu của nhà nước được duy trì không đổi theo một tỉ lệ trên GDP, cân đối ngân sách là yếu tố ngoại sinh, trong khi thuế trực thu điều chỉnh để bù đắp cho mọi thay đổi trong nguồn thu nhằm duy trì cân đối ngân sách ở mức ngoại sinh. Nguyên tắc đóng thứ hai xác định cân đối giữa đầu tư và tiết kiệm. Hộ gia đình tiết kiệm một phần thu nhập, trong đó xu hướng tiết kiệm trung bình chịu ảnh hưởng của tỉ lệ người phụ thuộc là người già và người trẻ, cũng như tốc độ tăng GDP bình quân đầu người. Đặc điểm của hàm tiết kiệm dựa trên nghiên cứu của Loayza, Schmidt-Hebbel, Serven (2000), trong đó sử dụng các hệ số khác nhau cho nước phát triển và nước đang phát triển. Đối với trường hợp Trung Quốc và Nga, chúng tôi sử dụng dự báo về tỉ lệ đầu tư hoặc tiết kiệm cho đến năm 2030 dựa trên các báo cáo khu vực của Ngân hàng Thế giới. Do tiết kiệm của chính phủ và tiết kiệm của nước ngoài là yếu tố ngoại sinh nên đầu tư cũng phụ thuộc vào tiết kiệm. Nguyên tắc đóng cuối cùng sẽ xác định cân đối với nước ngoài. Chúng tôi cố định yếu tố tiết kiệm của nước ngoài và theo đó là cán cân thương mại, vì thế thay đổi trong luồng luân chuyển thương mại sẽ dẫn đến thay đổi về tỉ giá.

Đầu tiên chúng tôi tạo ra kịch bản cơ sở dài hạn, sau đó cho chạy một số kịch bản phản thực. Sau đó khi so sánh hai kịch bản, chúng tôi tách biệt được tác động của một số thay đổi về chính sách khác nhau: 

Kịch bản cơ sở

Số liệu dùng để so sánh trong GTAP là của năm 2011. Chúng tôi chạy mô hình cho tới năm 2018, trong đó sử dụng lại các chỉ số gộp kinh tế vĩ mô từ báo cáo Triển vọng Kinh tế Toàn cầu (GEP 2016)9 của Ngân hàng Thế giới. Mức tăng dân số được tính dựa trên hệ số sinh trung bình trong dự báo dân số của Liên Hợp Quốc. Gia tăng lực lượng lao động dựa trên mức tăng dân số trong độ tuổi lao động, ở đây được xác định là nhóm dân số từ 15 đến 64 tuổi. Sự thay đổi của nguồn cung lao động có kỹ năng và không có kỹ năng thống nhất với kịch bản về xu hướng giáo dục không đổi (CER) của IIASA, trong đó tốc độ tăng cung lao động có kỹ năng cao hơn lao động không có kỹ năng. Tích lũy vốn được tính bằng tổng lượng vốn (đã khấu hao) của kỳ trước cộng với đầu tư. Tăng năng suất ở kịch bản cơ sở được “hiệu chuẩn” để đạt đến mức tăng của kịch bản cơ sở (như trong GEP (2016)), tính đến năm 2018, sau đó chúng tôi cố định mức tăng năng suất cho giai đoạn 2018-2030 cho khớp với các xu hướng trước. Các mức tăng năng suất này được giữ không đổi trong các kịch bản phản thực. Kịch bản cơ sở cũng tích hợp các mức giảm thuế quan của các FTA hiện thời. Những chỉ số này được dựa vào bộ dữ liệu của Trung tâm Thương mại Quốc tế, bao gồm cam kết FTA của tất cả các nước thành viên TPP tính đến năm 2030 (ITC và MAcMap, 2015).

Các kịch bản giả định

Các kết quả được căn cứ trên mức giảm thuế quan dự tính theo điều khoản của các hiệp định FTA giữa các nước thành viên và một số giả định chính về các mức giảm HRPTQ có lợi về mặt lý thuyết và khả thi về mặt chính trị và các mức cắt giảm thực tế có thể có sau khi triển khai FTA. Mặc dù các hiệp định phải được tất cả các nước thành viên thông qua, nhưng các mô phỏng được thực hiện vẫn giả định giai đoạn triển khai sẽ bắt đầu từ năm 2017. Ngoài ra, tác động của các FTA cũng được đánh giá so sánh với kịch bản cơ sở, gồm những hiệp định thương mại đã có giữa các nước thành viên (như NAFTA; AFTA; FTA ASEAN-Nhật Bản; FTA ASEAN-Ôtxtrâylia-Niu Dilân; Hiệp định P4 giữa Brunây, Chilê, Xingapo, Niu Dilân).

Giảm thuế quan cũng như các cam kết về thuế quan theo các hiệp định FTA hiện hành căn cứ vào lộ trình đã công bố theo các hiệp định theo tài liệu của ITC và MAcMap (2015), MAcMap (2016). Các tác giả sử dụng số liệu về giảm thuế quan của các FTA hiện hành được các nước thành viên ký kết cho đến năm 2031 cũng như các cam kết tính đến năm 2046 theo mã HS 6 chữ số. Cắt giảm hàng rào phi thuế quan (HRPTQ) khả thi được căn cứ vào nghiên cứu của Petri và Plummer (2016), và được giả định sẽ tương tự như Hiệp định giữa Hàn Quốc và Mỹ (KORUS), kèm theo một số điều chỉnh căn cứ vào phân tích văn kiện TPP và RCEP. Yếu tố HRPTQ đối với hàng hóa được xây dựng từ các ước tính cập nhật năm 2012 của Kee và các tác giả khác (2009), còn rào cản đối với dịch vụ được căn cứ vào ước toán của Fontagné, Mitaritonna, & Signoret (2016). Chỉ có 3/4 các rào cản tính toán được được xem là hàng rào thương mại thực, số còn lại được giả định là đại diện cho các quy định nhằm nâng cao chất lượng (như các tiêu chuẩn về an toàn sản phẩm). Ngoài ra, chỉ có 3/4 các HRPTQ còn lại đối với hàng hóa và một nửa đối với dịch vụ được giả định là có tính khả thi (khả thi về mặt chính trị trong hiệp định thương mại); phần còn lại được cho là không thuộc phạm vi ảnh hưởng khả thi về mặt chính trị của các chính sách thương mại.10 HRPTQ được mô hình hóa như tảng băng chi phí thương mại. Đây là những chi phí không tạo ra doanh thu, và nếu chi phí này được cắt giảm sẽ giúp mở rộng thương mại. Chẳng hạn, nếu tảng băng chi phí thương mại có hệ số bằng 0,9 tại một nút vận tải nào đó thì có nghĩa là nếu có 100 đơn vị dời cảng r thì tại cảng đến r’ sẽ chỉ nhận được 90 đơn vị.

Động lực phân bổ thu nhập toàn cầu

Báo cáo phân chia tác động của các hiệp định thương mại theo loại hình hộ gia đình và đối tượng lao động. Sự phân chia như vậy là một phương thức quan trọng để xác định tác động giảm nghèo và phân bổ của bất kỳ hiệp định thương mại nào. Để mô hình hóa những tác động phân bổ này, chúng tôi dự định sử dụng Mô hình Khung động lực Phân bổ Thu nhập Toàn cầu (GIDD)11. Mô hình GIDD là một khung mô phỏng vĩ mô-vi mô từ trên xuống, sử dụng để phân bổ các kết quả kinh tế vĩ mô của mô hình CGE cho hộ gia đình trong Điều tra Mức sống Hộ gia đình Việt Nam (ĐTMSHGĐVN 2012). Mô hình kinh tế vi mô sẽ thực hiện phân bổ tác động đồng thời bảo đảm đồng bộ với mô hình hành vi chung quan sát được từ mô hình vĩ mô. Hai mô hình này chủ yếu được áp dụng căn cứ trên những thay đổi về nguồn cung lao động, sự hình thành kỹ năng, thu nhập thực tế, vì thế có sự liên hệ thông qua những biến cụ thể và quan trọng phản ánh được những thay đổi này (xem danh mục các biến gộp ở Hộp dưới).

Khung mô phỏng vi mô được thực hiện theo 5 bước. Các bước từ 1 đến 4 cho phép thay đổi mức phân bổ thu nhập giữa các cá nhân giữ cho mức bình quân quốc gia không đổi; trong khi bước 5 áp dụng tỉ lệ tăng phân bổ không đổi cho mọi đối tượng. Nói một cách ngắn gọn, bước 1 cho phép thay đổi cơ cấu dân số của điều tra hộ gia đình theo các dự báo dân số, giáo dục ngoại sinh. Bước 2 cho phép dịch chuyển lao động từ các ngành đang thu hẹp hay mở rộng trong nền kinh tế, trong khi các thay đổi về kỹ năng, mức tăng lương theo ngành được mô hình hóa ở bước 3. Bước 4 điều chỉnh các thay đổi theo mức giá tương đối của người tiêu dùng. Sau cùng, bước 5 tính vào mô hình những thay đổi về mức tăng tiêu dùng hộ gia đình bình quân đầu người trên quy mô toàn nền kinh tế.


Bài viết liên quan