Là thành viên của WTO, Singapore có nghĩa vụ phải thông báo mọi biện pháp liên quan đến thương mại, bao gồm cả TBT, SPS, giấy phép nhập khẩu và các hạn chế số lượng lên WTO về các biện pháp dự kiến áp dụng để các doanh nghiệp xuất khẩu có thể thích nghi kịp thời. Thông thường, Singapore tiến hành thông báo 1-2 tháng trước khi áp dụng một biện pháp. Singapore tự đánh giá là các biện pháp phi thuế quan mà Singapore áp dụng đều không nhằm mục đích bảo hộ thương mại mà chỉ nhằm bảo vệ sức khỏe con người và môi trường. Khác với các nước, Singapore không tập trung quản lý nhà nước về các biện pháp phi thuế quan (chẳng hạn tại Bộ Công Thương) mà giao cho nhiều cơ quan khác nhau như Cơ Quan Thú Y và vệ sinh an toàn thực phẩm (AVA); Cơ quan Khoa học Y tế (HAS) và Cơ quan Môi trường quốc gia (NEA)[1], v.v. Dù tính bảo hộ thương mại không cao, nhưng việc thiếu tập trung quản lý các biện pháp phi thuế quan cũng làm cho các doanh nghiệp khó nắm bắt được các biện pháp hiện hành. Hơn nữa, các biện pháp này lại thay đổi thường xuyên do yêu cầu cập nhật các tiêu chuẩn quốc tế.
Tính đến nay, có khoảng 140 quy định trong 54 văn bản pháp quy có liên quan đến các biện pháp phi thuế quan; trong đó 115 quy định (trong 52 văn bản luật) có tác động phi thuế quan, chia thành 529 biện pháp và điều chỉnh 9558 sản phẩm. AVA là cơ quan ban hành nhiều biện pháp phi quan thuế nhất, chiếm gần 60% tổng số các biện pháp. Trong số 529 biện pháp này, 60% là các biện pháp mang tính rào cản kỹ thuật (TBT); 24% là các biện pháp SPS.
Theo nghiên cứu, hầu hết các sản phẩm nhập khẩu vào Singapore đều chịu tác động bởi ít nhất 2 biện pháp phi quan thuế. Khoảng 58% các sản phẩm chịu tác động của từ 3 biện pháp phi quan thuế trở lên (hàng điện tử, điện máy, sản phẩm hóa học và sản phẩm rau quả).
a) Về chống bán phá giá và trợ cấp
Luật Thuế chống bán phá giá và trợ cấp là cơ sở pháp lý chủ yếu để tiến hành các biện pháp chống bán phá giá và trợ cấp tại Singapore. Bộ Công Thương Singapore có thể tiến hành điều tra để xác định liệu hàng hoá đang được bán phá giá hoặc được trợ cấp hay không. Singapore không có bất kỳ quy định pháp lý nào về phòng vệ thương mại.
b) Về tiêu chuẩn kỹ thuật
Singapore thiết lập các tiêu chuẩn quốc gia phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế. Singapore khuyến khích việc sử dụng trực tiếp các tiêu chuẩn quốc tế bất kỳ khi nào có thể. Tiêu chuẩn Singapore (SS) được xây dựng khi không có tiêu chuẩn quốc tế nào phù hợp tương đương, hoặc khi cần có tiêu chuẩn cụ thể để đáp ứng các yêu cầu nội địa. Tính đến tháng 5/2018, Singapore hiện có 633 tiêu chuẩn Singapore, trong đó khoảng 40% được lấy từ tiêu chuẩn quốc tế.
Chương trình tiêu chuẩn hoá của Singapore dựa trên mô hình hợp tác Công - Tư (PPP) dưới sự điều hành của Hội động Tiêu chuẩn Singapore (SSC) được thành lập bởi Enterprise Singapore.
Các rào cản phi thuế quan trong một số lĩnh vực cụ thể
Các rào cản đối với lĩnh vực dịch vụ
Singapore thiết lập các tiêu chuẩn ngặt nghèo đối với các công ty nước ngoài muốn gia nhập thị trường dịch vụ. Cơ quan Phát triển Thông tin truyền thông Singapore (IMDA) là cơ quan quản lý cấp phép cho các công ty muốn cung cấp dịch vụ pay-TV. Singapore cũng hạn chế việc sử dụng chảo vệ tinh và không cho phép dịch vụ TV vệ tinh trực tiếp đến hộ gia đình. IDMA cấp phép cho việc lắp đặt mọi thiết bị tiếp sóng. Việc nhập khẩu, phân phối báo chí nước ngoài phải được sự cho phép của Chính phủ Singapore. Đối với dịch vụ tư vấn pháp lý, Singapore cũng hạn chế các văn phòng luật nước ngoài tư vấn luật Singapore; đến nay mới có 9 giấy phép đủ điều kiện thực hành luật được Bộ Tư pháp Singapore cấp, tuy nhiên thông tin về việc cấp phép này không được phổ biến rộng rãi. Đối với dịch vụ ngân hàng, Cơ quan tiền tệ Singapore (MAS) cấp quy chế “Ngân hàng đủ tiêu chuẩn” cho các ngân hàng nước ngoài và sẽ chỉ xem xét cấp thêm quy chế này trên cơ sở các FTAs. MAS cũng là cơ quan cấp phép cho việc mua bán-sáp nhập cổ phần của các ngân hàng/cơ quan tài chính Singapore, với 3 ngưỡng: 5-12-20%. Về dịch vụ y tế, nhiều công ty nước ngoài cũng phản ánh sự thiếu minh bạch trong chính sách trợ cấp của Bộ y tế Singapore đối với việc cấp giấy phép nhập khẩu thuốc và cho phép sử dụng các sáng chế sinh dược. Ngoài ra, đối với một số dịch vụ mang tính an ninh quốc gia như vận chuyển hàng không, dịch vụ công, vận tải hàng hóa, Singapore cũng áp đặt hạn chế không cho nước ngoài tham gia kinh doanh.
Đối với mua sắm công, mặc dù Singapore đã ký Hiệp định WTO về mua sắm chính phủ, tuy nhiên, một số doanh nghiệp nước ngoài vẫn cho rằng các công ty thuộc sở hữu chính phủ hoặc có liên hệ với chính phủ vẫn được hưởng ưu đãi hơn.
Các rào cản đối với thực phẩm và kiểm dịch động thực vật
Các quy định về các biện pháp đảm bảo vệ sinh và kiểm dịch (SPS) của Singapore bao gồm: Luật về Cơ Quan Thú Y và vệ sinh an toàn thực phẩm (AVA); Luật về Chim và Thú; Luật kiểm soát Cây trồng; Luật về Thịt và Cá sạch; Luật Buôn bán Thực phẩm; Luật về các loài động vật đang gặp nguy hiểm (xuất và nhập khẩu); Luật về Chim và Thú hoang dã; Luật Nghề cá; và Luật về thức ăn.
Các biện pháp vệ sinh và kiểm dịch của Singapore đều phù hợp với các tiêu chuẩn, hướng dẫn quốc tế và các khuyến nghị của Bộ quy tắc về thực phẩm (Codex Guidelines-FAO vs. WHO), Tổ chức Sức khoẻ Động vật Thế giới (OIE) và Công ước về Bảo vệ Thực vật Quốc tế (IPPC). Trường hợp không có các tiêu chuẩn quốc tế/khu vực, Singapore trực tiếp tiến hành các biện pháp đánh giá và đưa ra các quyết định quản lý rủi ro trên cơ sở các thông số về kinh tế, kỹ thuật và các yếu tố liên quan khác. Các biện pháp SPS tạm thời có thể được đưa ra trong trường hợp chưa đủ các bằng chứng khoa học. Tuy nhiên, theo quan điểm của hầu hết các nước có thực phẩm và hoa quả nhập khẩu vào Singapore, các biện pháp của AVA là quá khắt khe và cẩn trọng, tạo ra nhiều rào cản thương mại.
Tất cả sản phẩm thực phẩm và dụng cụ thế biến thức ăn được quản lý bởi Cơ quan Thú y và Nông phẩm Singapore (AVA). Tất cả các công ty muốn nhập khẩu, xuất khẩu hoặc trung chuyển sản phẩm thực phẩm được yêu cầu phải xin giấy phép có liên quan hoặc đăng ký với AVA; các quy trình phải hoàn thiện và được chấp thuận bằng văn bản của AVA trước khi xuất sang Singapore.
AVA yêu cầu chứng chỉ an toàn với tất cả các loại thịt sống và các loại hải sản có vỏ; tiến hành kiểm tra lấy mẫu ngẫu nhiên thường xuyên tại các cửa hàng bán lẻ để kiểm tra sự tồn dư của các phụ gia; các chất bảo quản và các khuẩn hoặc vi khuẩn. AVA cũng chỉ chấp thuận số lượng hạn chế các biện pháp xử lý tác nhân gây bệnh bằng thuốc kháng vi khuẩn.
+ Việc nhập khẩu các sản phẩm sữa, động vật tươi sống, thịt, cá được đánh giá là “rủi ro cao” và phải chịu kiểm soát chặt chẽ, bao gồm: cấp phép đối với nông trại ở nước ngoài, kiểm tra và kiểm nghiệm.
+ Việc nhập khẩu thịt chỉ được chấp nhận đối với các cơ sở được cấp phép từ các nước Singapore đã có thoả thuận. Đối với thịt, AVA yêu cầu phải kiểm tra bệnh giun xoắn – là một test đắt và tốn thời gian. Ngoài ra, AVA cũng yêu cầu ngặt nghèo về mốc thời gian từ sau khi giết mổ đến khi xuất hàng.
+ Trứng tươi chỉ được nhập khẩu từ các trang trại được cấp phép của Australia, Nhật, Malaysia, Hàn Quốc, New Zealand, Thuỵ Điển và Mỹ.
+ Gà và vịt nướng chỉ được nhập từ các nông trại được cấp phép của Malaysia.
+ Các sản phẩm sữa từ các nước không có dịch bệnh lở mồm long móng có thể được nhập nếu được diệt trùng kép.
+ Các sản phẩm từ các loài có vỏ rủi ro cao như hàu, thịt sò, tôm nướng, thịt cua nướng chỉ được nhập từ một số nguồn nhất định có các chương trình vệ sinh được công nhận. Hàu sống chỉ được nhập từ Australia, Canada, Pháp, Ireland, Hà Lan, New Zealand, Anh và Mỹ.
+ Theo Luật Kiểm soát Thực vật, nhập khẩu thực vật và các sản phẩm thực vật được quản lý bởi AVA để ngăn ngừa các giống cây độc hại vào Singapore và khu vực. Các giống cây được trồng tại các công viên công nghệ nông nghiệp của Singapore cũng chịu sự quản lý của AVA. Thực vật phải có chứng chỉ kiểm dịch từ nước xuất xứ. Các chứng chỉ kiểm dịch đối với cây trồng và sản phẩm thực vật xuất khẩu từ Singapore do AVA cấp.
[1] Ngoài ra, còn có Bộ Y tế, Cơ quan Hải quan Singapore, Bộ Môi trưởng Singapore, Cơ quan an ninh Singapore, Cơ quan quốc phòng Singapore, Bộ Công Thương…