Tin tức

Đánh giá tiềm năng và dư địa của mặt hàng gạo xuất khẩu sang thị trường Malaysia


Malaysia là nước không có điều kiện thổ nhưỡng tốt để trồng lúa gạo, nông nghiệp của họ tập trung vào trồng cây cọ dầu và cao su. Diện tích canh tác của quốc gia này tương đối thấp, chỉ có 700.000 ha trồng lúa, đây cũng là quốc gia có diện tích trồng lúa ít nhất tại khu vực Đông Nam Á. Khả năng tự túc gạo của họ chỉ đáp ứng được khoảng 65-70% nhu cầu tiêu thụ trong nước, vì thế hàng năm họ phải nhập khẩu từ 900 nghìn tới 1 triệu tấn để đáp ứng nhu cầu trong nước và dự trữ tùy thuộc vào sản lượng gạo sản xuất trong nước.

Malaysia là nước không có điều kiện thổ nhưỡng tốt để trồng lúa gạo, nông nghiệp của họ tập trung vào trồng cây cọ dầu và cao su. Diện tích canh tác của quốc gia này tương đối thấp, chỉ có 700.000 ha trồng lúa, đây cũng là quốc gia có diện tích trồng lúa ít nhất tại khu vực Đông Nam Á. Khả năng tự túc gạo của họ chỉ đáp ứng được khoảng 65-70% nhu cầu tiêu thụ trong nước, vì thế hàng năm họ phải nhập khẩu từ 900 nghìn tới 1 triệu tấn để đáp ứng nhu cầu trong nước và dự trữ tùy thuộc vào sản lượng gạo sản xuất trong nước.

Tại Malaysia, Padiberasnasional Berhad (Bernas Berhad) là doanh nghiệp độc quyền nhập khẩu gạo trắng dài (gạo tiêu thụ chủ yếu tại Malaysia). Thời hạn độc quyền này được thực hiện theo hợp đồng đã ký với chính phủ từ năm 1996 và hiện vẫn còn hiệu lực tới nay. Tuy nhiên, ngoài lĩnh vực độc quyền và phân phối gạo trắng dài, doanh nghiệp này còn có trách nhiệm thay mặt chính phủ duy trì kho dự trữ gạo của quốc gia, giữ vai trò là người thu mua lúa gạo cuối cùng cho nông dân trồng lúa, quản lý các cơ sở xay xát cũng như việc phân phối trợ cấp giá thóc cho nông dân. Các loại gạo trắng thơm, gạo dẻo (nếp) không bị hợp đồng này chi phối, nghĩa là các doanh nghiệp Malaysia được tự do nhập khẩu.

Theo số liệu của Tổng cục Hải quan Việt Nam, năm 2018, kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam sang Malaysia đạt 216,8 triệu USD, tăng 3,6% so với năm 2017. Năm 2019, kim ngạch xuất khẩu gạo đạt 218,8 triệu USD, tăng 0,9% so với năm 2018. Năm 2020, kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam sang Malaysia đạt 237,3 triệu USD, tăng 8,5% so với năm 2019. Tuy nhiên, năm 2021, kim ngạch xuất khẩu gạo chỉ đạt 87,4 triệu USD, giảm 50,5% so với cùng kỳ năm 2020. 09 tháng năm 2022, Việt Nam xuất khẩu sang Malaysia đạt 150,4 triệu USD, tăng 28,8% so với cùng kỳ năm 2021.

Một số đối thủ cạnh tranh của Việt Nam tại thị trường Malaysia gồm có Thái Lan, Ấn Độ, Pakistan và Campuchia. Ngoài năm 2018, việc nhập khẩu gạo từ Việt Nam có doanh số thấp hơn so với Thái Lan thì các năm còn lại sản lượng nhập khẩu gạo từ Việt Nam đã vượt qua Thái Lan và trở thành nhà xuất khẩu gạo lớn nhất tại thị trường Malaysia trong giai đoạn 2017-2020. Tuy nhiên đến năm 2021, theo số liệu của Cục Thống kê Quốc gia Malaysia, Ấn độ đã trở thành nhà xuất khẩu gạo lớn nhất tại thị trường gạo Malaysia với thị phần chiếm 37,1% (tương ứng kim ngạch nhập khẩu 213 triệu USD gạo từ Ấn Độ) trong khi Việt Nam chỉ chiếm thị phần là 23,1%.

Bên cạnh vấn đề về tăng sản lượng, Việt Nam cũng cần tập trung vào thương hiệu và tăng xuất khẩu các sản phẩm gạo thơm chất lượng cao, giá trị lớn. Tại thị trường này, gạo Việt vẫn chưa tạo nên thương hiệu cho riêng mình. Vì vậy, các doanh nghiệp cần đẩy mạnh chất lượng cũng như thúc đẩy mạnh hơn quá trình quảng bá gạo Việt đến với người dân bản địa./.


Bài viết liên quan