Israel đất nước của dân tộc Do Thái, là một xứ sở của kinh thánh, bản sắc tôn giáo, dân tộc và văn hóa với hơn 4000 năm lịch sử. Với nhiều biến động trong suốt chiều dài lịch sử, với sự hình thành của nhà nước Israel vào năm 1948, nền độc lập của người Do Thái được khôi phục sau 2000 năm. Đến thời điểm hiện tại, Israel, với diện tích rất nhỏ chỉ trên 20.000 km2, được mệnh danh là “thung lũng Silicon” của thế giới trong nhiều lĩnh vực như nông nghiệp, công nghệ nước, v.v.
1. Tổng quan nền kinh tế
Từ năm 2021 đến nay, tình hình chính trị Israel trải qua nhiều thay đổi. Ngày 13/6/2021, Quốc hội (Knesset) Israel đã họp phiên toàn thể, bỏ phiếu thông qua việc thành lập chính phủ mới. Ông Naftali Bennett-Chủ tịch đảng Yamina, 49 tuổi, đã tuyên thệ nhậm chức, chính thức trở thành Thủ tướng thứ 13 của Israel, khép lại bế tắc chính trị kéo dài trong hơn 2 năm qua trên chính trường Israel. Tuy nhiên đến năm 2022, ông Yair Laid -Chủ tịch đảng Yesh Atid, người mà dưới thời ông Bennett đã nhậm chức Thủ tướng luân phiên (Alternate Prime Minister-tương đương Phó Thủ tướng thứ nhất) kiêm Bộ trưởng Ngoại giao, đã trở thành Thủ tướng Israel. Những thay đổi về chính trị ở Israel theo đó, đi kèm nhiều thay đổi về kinh tế.
Đầu tháng 6/2021, Israel lên kế hoạch mở Văn phòng Kinh tế tại Abu Dhabi, UAE để thu hút nguồn vốn đầu tư và thúc đẩy quan hệ kinh tế với các nước Vùng Vịnh và thế giới Ả-rập; đồng thời, lần đầu tiên Israel được bầu vào làm thành viên của Hội đồng Kinh tế và Xã hội của Liên Hợp quốc nhiệm kỳ 2022-2023 với 153 phiếu thuận. Bước tiến này thêm khảng định vị thế của quốc gia này trên các diễn đàn toàn cầu. Đồng thời, Israel chính thức mở cửa Đại sứ quán tại UAE vào cuối tháng 6/2021, cùng thời điểm Bahrain chính thức bổ nhiệm Đại sứ đầu tiên tại Israel và Honduras mở Đại sứ quán tại Jerusalem nhân chuyến thăm chính thức Israel của Tổng thống nước này.
Năm 2021, mặc dù tiếp tục chịu ảnh hưởng bởi đại dịch Covid-19, Nền kinh tế của Israel tiếp tục phục hồi và thâm hụt tài chính tiếp tục giảm, trong khi nguồn thu của chính phủ tăng mạnh. Bộ Tài chính I-xra-en cho biết, tính cộng dồn thâm hụt tài chính trong 12 tháng qua, kết thúc vào cuối tháng 5/2021 là 149,2 tỷ NIS (tương đương 46,2 tỷ USD) hoặc bằng 10,5% GDP; so với mức 158,9 tỷ NIS hoặc 11,2% GDP trong cuối tháng 4 trước đó. Sau khi tăng vọt do ảnh hưởng tiêu cực của đại dịch Covid-19, thâm hụt tài chính bắt đầu giảm trong tháng 3/2021, khi số liệu cộng dồn trong 12 tháng giảm xuống bằng 12,1% GDP (bằng 169,4 tỷ NIS, tương đương 52,61 tỷ USD), so với mức 12,4% GDP tính cộng dồn trong 12 tháng kết thúc vào cuối tháng 02/2021.
Đến năm 2022, kinh tế Israel được ghi nhận đang hồi phục và phát triển khá nhanh, thị trường lao động được kiểm soát chặt chẽ và có nhiều việc làm được tạo ra, tăng trưởng GDP trong quý 2/2022 đạt 6,8%. Dự báo, tăng trưởng GDP của Israel có thể đạt 6% trong cả năm 2022 và giảm xuống còn 3% trong năm 2023. Tuy nhiên, với một năm 2022 với nhiều biến động chính trị trên thế giới như chiến tranh Nga-Ucraina, giá cả hàng hóa và dịch vụ trong nước cũng được ghi nhận tăng cao, đời sống người dân gặp nhiều khó khăn do giá cả sinh hoạt đắt đỏ, đặc biệt giá nhà ở và bất động sản tăng cao xấp xỉ 20% so với năm trước, thậm chí có những thời điểm thiếu và khan khiếm hàng hóa.
Trong tháng 9/2022, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tăng 0,2%. Lạm phát tính đến cuối tháng 8/2022 giữ ở mức 4,6%. Trong 9 tháng đầu năm 2022, CPI tăng 4,3%. Thặng dư tài chính tiếp tục gia tăng. Từ đầu năm đến nay, thu ngân sách tăng 20,2% và chi ngân sách giảm 7,2% so với cùng kỳ năm ngoái; tính đến hết tháng 9/2022, thặng dư tài chính đạt 15,7 tỷ NIS (tương đương 4,49 tỷ USD) và bằng 0,9% GDP. Thất nghiệm đứng ở mức 3,4% tính đến cuối tháng 8/2022. Lãi suất cho vay đã được Ngân hàng Trung ương I-xra-en tăng lên mức 2,0% và dự kiến tiếp tục được tăng lên mức 2,75% vào đầu tháng 10/2022, đây sẽ là lần tăng lãi suất thứ 5 kể từ đầu năm nay. Dự trữ ngoại hối tính đến cuối tháng 9/2022 đạt xấp xỉ 186 tỷ USD, giảm 6,15 tỷ USD so với tháng 8/2022 và bằng 36% GDP. Đây là tháng thứ 8 liên tiếp Ngân hàng Trung ương Israel không mua ngoại tệ vào như đã từng thực hiện trong năm ngoái nhằm kiểm soát việc lên giá của đồng shekel (NIS) (tháng 1 đầu năm 2022, Ngân hàng Trung ương chỉ mua vào số lượng ngoại tệ 356 triệu USD).
2. Trao đổi thương mại:
- Các sản phẩm nông nghiệp: trái cây, rau quả, sợi bông, thịt bò, gia cầm, sản phẩm từ sữa.
- Các sản phẩm công nghiệp: các sản phẩm công nghệ cao (bao gồm hàng không, truyền thông, thiết kế và sản xuất máy tính, điện tử, y tế, sợi quang), sản phẩm gỗ và giấy, kali và phốt phát, thực phẩm, đồ uống, và thuốc lá, soda (NaOH), xi măng, dược phẩm, xây dựng, kim loại sản phẩm, sản phẩm hóa học, nhựa, kim cương đã được cắt mài, dệt may, giày dép.
Trong 8 tháng đầu năm 2022, Israel xuất khẩu hàng hóa đạt kim ngạch 44,4 tỷ USD, nhập khẩu hàng hóa đạt 73,3 tỷ USD, thâm hụt thương mại đạt 28,9 tỷ USD.
- Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu:
Trong tháng 5/2021, nhóm hàng công nghiệp và khai khoáng (không tính kim cương) đạt 4,04 tỷ USD, kim cương chế tác đạt 258,9 triệu USD, kim cương thô đạt 141,1 triệu USD, nhóm hàng nông-lâm-thủy-hải sản đạt 65,0 triệu USD.
Năm 2022, số liệu 10 tháng đầu năm thể hiện, xuất khẩu kim cương thô đạt 1,37 tỷ USD, xuất khẩu kim cương chế tác của I-xra-en đạt xất xỷ 3,4 tỷ USD. Đặc biệt xuất khẩu hàng công nghiệp và khai khoáng đạt 49, 3 tỷ USD và xuất khẩu nông lâm thủy sản đạt 866,8 triệu USD. Tổng thể xuất khẩu của Israel 10 tháng đầu năm 2022 bằng 54,7 tỷ USD.
- Mặt hàng nhập khẩu chủ yếu:
10 tháng đầu năm 2022, Israel ghị nhận nhập khẩu tăng với tổng nhập khẩu đạt 89, 2 tỷ USD. Các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu gồm có: hàng tiêu dùng (20,8 tỷ USD), nguyên liệu thô (38,67 tỷ USD), nhiên liệu (12,39 tỷ USD), tài sản đầu tư (11,6 tỷ USD), v.v.
3. Các ngành kinh tế mũi nhọn
Các ngành kinh tế chủ chốt bao gồm sản phẩm công nghệ cao, sản phẩm kim loại, thiết bị điện tử và y sinh, sản phẩm nông nghiệp, chế biến thực phẩm, hóa chất, thiết bị vận tải; Israel cũng là một trong những trung tâm hàng đầu thế giới về chế tác kim cương.
Israel phụ thuộc vào việc nhập khẩu dầu mỏ, nguyên vật liệu thô, lúa mì, xe, kim cương chưa cắt và một số đầu vào khác cho sản xuất. Tuy nhiên việc lệ thuộc hoàn toàn vào năng lượng nhập khẩu có thể sẽ thay đổi vì gần đây Israel phát hiện một trữ lượng lớn khí tự nhiên ở vùng bờ biển nước này.
3.1. Nông nghiệp
2,8% GDP Israel là từ nông nghiệp. Trong tổng số lao động trên toàn lãnh thổ là 2,7 triệu người, 2,6% làm việc trong sản xuất nông nghiệp và 6,3% trong các dịch vụ liên quan đến nông nghiệp. Trong khi Israel nhập khẩu một lượng lớn ngũ cốc (xấp xỉ 80% lượng tiêu thụ), nước này đã gần như tự sản xuất được các sản phẩm nông nghiệp và thực phẩm đóng gói khác. Trong nhiều thế kỷ, nông dân đã trồng được nhiều loại trái cây khác nhau thuộc chi cam chanh như bưởi, các loại cam, các loại chanh. Trái cây thuộc chi cam chanh là mặt hàng nông nghiệp xuất khẩu chính của Israel. Bên cạnh đó, Israel cũng là nước hàng đầu về xuất khẩu các thực phẩm được trồng trong nhà kính. Israel xuất khẩu hơn 1,3 tỷ USD sản phẩm nông nghiệp mỗi năm, ngoài ra còn xuất khẩu 1,2 tỷ USD các sản phẩm và công nghệ đầu vào cho nông nghiệp.
3.2. Công nghệ
Khoa học và công nghệ là một trong những lĩnh vực phát triển cao và có mức độ công nghiệp hóa mạnh nhất ở Israel. Phần trăm số lao động Israel tham gia vào lĩnh vực khoa học và công nghệ, cũng như tỷ lệ số vốn bỏ vào nghiên cứu và phát triển trong tổng sản phẩm quốc nội đứng hàng đầu thế giới. Israel đứng thứ 4 trên thế giới về số công trình khoa học tính trên một triệu dân. Tỷ lệ phần trăm số bài báo khoa học xuất phát từ Israel trên tổng số bài báo khoa học của thế giới gấp 10 lần tỷ lệ phần trăm của dân số Israel trong tổng dân số thế giới. Israel có tỷ lệ trung bình số nhà khoa học, chuyên gia kỹ thuật và kỹ sư trên 10 ngàn lao động cao nhất thế giới: 140 người. Tỷ lệ này ở Mỹ là 85 và ở Nhật là 83 người trên 10.000 lao động. Các nhà khoa học Israel đã đóng góp cho sự tiến bộ trong các lĩnh vực khoa học tự nhiên, khoa học nông nghiệp, khoa học máy tính, điện tử, nghiên cứu gen, y dược, quang học, năng lượng mặt trời và nhiều lĩnh vực kỹ thuật khác. Israel có cơ sở của nhiều công ty công nghệ cao hàng đầu và có một dân số hiểu biết nhiều về kỹ thuật.
3.3. Công nghiệp
Israel có ngành công nghiệp hóa chất phát triển cao với nhiều sản phẩm nhắm đến thị trường xuất khẩu. Đa số các nhà máy hóa chất đặt tại Ramat Hovav, vùng vịnh Haifa và khu vực gần Biển Chết. Công ty Hóa chất Israel - Israel Chemicals là một trong những công ty phân bón và hóa chất lớn nhất Israel. Công ty con của nó - Dead Sea Works tại Sdom là nhà sản xuất và cung cấp lớn thứ tư thế giới về các sản phẩm làm từ chất kali. Công ty cũng sản xuất một số sản phẩm khác như magiê clorua (MgCl2), muối công nghiệp, chất làm tan băng, muối tắm - bath salts, muối ăn, nguyên liệu thô cho ngành công nghiệp sản xuất mỹ phẩm. Một trong những công ty tuyển nhiều nhân công nhất ở Israel là Tập đoàn Công nghiệp Hàng không Israel (Israel Aerospace Industries), sản xuất chủ yếu là các sản phẩm hàng không dân dụng và quốc phòng. Một nhà tuyển dụng lớn khác là Tập đoàn Công nghiệp Dược phẩm Teva (Teva Pharmaceutical Industries), trong năm 2011 công ty này sử dụng 40.000 nhân viên.
3.4. Công nghiệp quốc phòng
Israel là một trong những nhà xuất khẩu hàng đầu về các trang thiết bị quân sự, chiếm 10% thị trường thế giới năm 2007. Israel có 3 công ty nằm trong danh sách năm 100 công ty cung cấp vũ khí và dịch vụ quân sự hàng đầu thế giới năm 2010 của Viện Nghiên cứu Hòa bình Quốc tế Stockholm: Elbit Systems, Israel Aerospace Industries và RAFAEL. Công nghiệp quốc phòng ở Israel là một ngành quan trọng về mặt chiến lược và cũng là một nhà tuyển dụng lớn trong nước. Nó là một người chơi lớn trong thị trường vũ khí toàn cầu và là nhà xuất khẩu vũ khí đứng thứ 11 trên thế giới năm 2012. Tổng giá trị chuyển giao vũ khí từ năm 2004 đến 2011 đạt 12,9 tỷ USD. Có hơn 150 công ty quốc phòng có trụ sở ở Israel với tổng doanh thu hằng năm là 3,5 tỷ USD. Xuất khẩu trang thiết bị quốc phòng của Israel đạt 7 tỷ USD năm 2012, tăng 20% so với năm 2011. Hầu hết hàng được xuất đi châu Âu và Mỹ. Những khu vực mua nhiều thiết bị quốc phòng của Israel bao gồm Đông Nam Á và Mỹ La Tinh. Ấn-độ là thị trường vũ khí lớn nhất của Israel. Israel được xem là nhà xuất khẩu máy bay không người lái hàng đầu trên thế giới. Theo Viện Nghiên cứu Hòa bình Quốc tế Stockholm, Israel đứng đằng sau 41% số máy bay không người lái được xuất khẩu trong giai đoạn 2001 -2011.
4. Hàng hóa Việt Nam tại thị trường Israel
Xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang Israel đã tăng trưởng 25%/năm trong giai đoạn 2014 - 2018. Riêng năm 2018, Việt Nam đã xuất khẩu lượng hàng hóa trị giá khoảng 946,326 triệu USD sang Israel, đứng thứ 20 trong số hơn 100 quốc gia xuất khẩu vào Israel, tăng 58% so với năm 2017, chiếm 0,3% tổng lượng xuất khẩu của Việt Nam. Các mặt hàng xuất khẩu chính là lương thực, thực phẩm như hạt điều, thủy hải sản các loại gồm cá ngừ, tôm đông lạnh, mực, nước giải khát các loại..., hàng dệt may, giày dép, hàng tiêu dùng và gia dụng, đồ dùng và vật dụng thể thao, trái cây chế biến và sấy khô, cà phê, trà, gia vị.
Sáu tháng đầu năm 2021, tình hình thị trường Israel có nhiều biến động phức tạp, xáo trộn. Đối với xuất khẩu của Việt Nam sang Israel, trong 5 tháng đầu năm 2021, ngoại trừ mặt hàng cà phê giảm 17,5% và mặt hàng dệt may các loại giảm 13,2%; hầu hết các mặt hàng xuất khẩu chủ lực còn lại đều tăng mạnh so với cùng kỳ năm trước, trong đó, giày dép các loại tăng cao 87,3%, thủy sản tăng 36,5%, điện thoại các loại và linh kiện tăng 19,5%, hạt điều tăng 15,5%. Riêng về nhóm mặt hàng thủy hải sản, tính đến ngày 15/6/2021, xuất khẩu cá ngừ sang Israel đạt 16,63 triệu USD, tăng 34,7% so với cùng kỳ năm trước, chiếm tỷ trọng 5,2% tổng kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này của cả nước và Israel là một trong 10 thị trường nhập khẩu cá ngừ hàng đầu của Việt Nam (tính đến hết tháng 5/2021, đứng thứ 3, sau Mỹ và Italy, đối với cá ngừ mã HS 03; và đứng thứ 4, sau Mỹ, Italy và Nhật Bản đối với cá ngừ mã HS 16). Số liệu thống kê tính đến hết tháng 5/2021 cho thấy, mặt hàng tôm đông lạnh đạt 5,12 triệu USD, chiếm tỷ trọng 0,4% tổng kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này của cả nước; mặt hàng mực đông lạnh đạt 1,35 triệu USD, chiếm tỷ trọng 0,6% tổng kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này của cả nước; mặt hàng cá tra đạt 1,62 triệu USD, chiếm tỷ trọng 0,3% tổng kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này của cả nước. Mặt hàng tôm và mực đông lạnh tiếp tục có chỗ đứng ổn định trên thị trường và được người tiêu dùng Israel đánh giá cao. Hiện tại, Israel là thị trường xuất khẩu thủy hải sản đứng thứ 22 trong số trên 100 thị trường Việt Nam đã có xuất khẩu thủy sản sang đó.
Ngoài ra, mặt hàng gạo thơm, hạt dài, loại 5% tấm, đóng bao 5kg; các loại thực phẩm khô như bánh tráng cuốn, bánh đa nem, phồng tôm.... tiếp tục xâm nhập và được phân phối trên thị trường Israel. Một số doanh nghiệp Israel tiếp tục quan tâm tới mặt hàng lương thực thực phẩm đóng hộp, nông sản các loại, rau củ quả sấy khô, trái cây đóng hộp (dứa thái lát đông lạnh, ...), nước giải khát, hàng dệt may, găng tay y tế, bao bì các loại, vật liệu xây dựng và đang tiếp tục giao dịch với các công ty Việt Nam để có thể ký kết hợp đồng trong thời gian tới.
(Các thông tin về Thị trường Israel được cung cấp bởi Thương vụ Việt Nam tại Israel)
