Tin tức

Cam kết chính của Hiệp định UKVFTA về hàng rào kỹ thuật đối với thương mại

Thứ Năm, 09/11/2023


1. Tổng quan về các cam kết TBT trong Hiệp định UKVFTA

Với mục tiêu tạo thuận lợi và tăng cường thương mại song phương bằng cách ngăn chặn và giảm thiểu các hàng rào kỹ thuật không cần thiết đối với thương mại, đồng thời tăng cường hợp tác, Chương Hàng rào kỹ thuật đối với thương mại (TBT) bao gồm các quy định cơ bản liên quan đến tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, quy trình đánh giá sự phù hợp, hợp tác, tham vấn v.v., tương tự Hiệp định TBT của WTO và các FTA khác.

Tuy nhiên, Chương này cũng đặt ra một số ngoại lệ về quy định kỹ thuật của việc mua sắm do cơ quan của Chính phủ xây dựng để phục vụ yêu cầu sản xuất, tiêu dùng của cơ quan đó hoặc các biện pháp SPS được quy định tại Phụ lục A (Định nghĩa) của Hiệp định SPS của WTO. Hiệp định SPS quy định rằng, Hiệp định này sẽ không ảnh hưởng đến quyền của các Thành viên WTO theo Hiệp TBT liên quan đến các biện pháp không thuộc phạm vi của Hiệp định SPS.

Ngoài ra, Chương TBT còn bao gồm các điều khoản mới (chưa có trong các FTA khác) như hậu kiểm, đánh dấu và ghi nhãn. Chương này cũng tích hợp hoặc dẫn chiếu đến nội dung của Hiệp định TBT của WTO kèm theo những sửa đổi thích hợp.

2. Một số cam kết chính cần lưu ý

2.1. Quy chuẩn kỹ thuật

Hai bên cam kết sẽ áp dụng tối đa thực hành quản lý tốt, cụ thể là đánh giá các phương án quản lý và không quản lý trong các quy chuẩn kỹ thuật trên cơ sở các mục tiêu hợp pháp mà hai bên theo đuổi; áp dụng tiêu chuẩn quốc tế như ISO, IEC, ITU và Codex khi xây dựng quy chuẩn kỹ thuật, trừ khi các tiêu chuẩn quốc tế này không phù hợp hoặc không hiệu quả để thực hiện mục tiêu hợp pháp mà hai bên theo đuổi.

Cụ thể, Chương này quy định hai bên tận dụng những thông lệ tốt theo Hiệp định TBT khi đưa ra bất kỳ một quy chuẩn kỹ thuật nào, ba gồm các yếu tố là:

- Tính toán đến những phương án thay thế vừa đảm bảo phù hợp với mục tiêu quản lý hợp pháp của mình, vừa phù hợp với quy định tại Điều 2.2 của Hiệp định TBT của WTO. Điều này có nghĩa là các quy chuẩn này không được xây dựng với mục đích gây ra những cản trở không cần thiết đối với thương mại quốc tế trong quá trình chính phủ thực hiện những mục tiêu hợp pháp là: các yêu cầu về an ninh quốc gia, ngăn ngừa hoạt động gian lận, bảo vệ sức khỏe và an toàn của con người, động thực vật hoặc môi trường.

- Sử dụng các tiêu chuẩn quốc tế có liên quan, chẳng hạn như những tiêu chuẩn được xây dựng bởi Tổ chức tiêu chuẩn hoá quốc tế, Uỷ ban kỹ thuật điện quốc tế, Uỷ ban viễn thông quốc tế, Ủy ban Codex để làm cơ sở cho các quy chuẩn kỹ thuật của mình, trừ khi những tiêu chuẩn quốc tế này không hiệu quả hoặc không phù hợp để thực hiện các mục tiêu hợp pháp của mình. Trong trường hợp không sử dụng các tiêu chuẩn quốc tế làm cơ sở, mà bên kia yêu cầu giải thích thì phải chỉ rõ những điều chỉnh khác với các tiêu chuẩn quốc tế, và phải giải thích lý do tại sao các tiêu chuẩn đó lại được xem là không phù hợp hoặc không hiệu quả với mục đích mà mình đang theo đuổi. Đây là một nội dung mới so với các cam kết của Hiệp định TBT của WTO.

- Phải rà soát các quy chuẩn nhằm đảm bảo các quy chuẩn này phù hợp tối đa với các tiêu chuẩn quốc tế liên quan, trong quá trình này phải tính đến cả những điểm mới được bổ sung trong các tiêu chuẩn quốc tế để đảm bảo phù hợp cả với những điểm mới này.

- Phải quy định quy chuẩn kỹ thuật dựa trên đặc tính vận hành của sản phẩm thay vì dựa trên thiết kế hoặc đặc điểm mô tả.

Theo Chương này, hai bên cũng cam kết xem xét công nhận tương đương quy chuẩn kỹ thuật của nhau, mỗi bên cũng có thể gửi yêu cầu bằng văn bản cho Bên kia về việc thừa nhận tương đương đối với quy chuẩn kỹ thuật mà tương thích về phạm vi áp dụng và mục tiêu. Trong văn bản trả lời, nếu bên kia từ chối thì phải nêu lý do về việc từ chối công nhận.

2.2. Tiêu chuẩn kỹ thuật

Hai bên khẳng định lại quyết định của Ủy ban TBT của WTO về các nguyên tắc xây dựng tiêu chuẩn, hướng dẫn hoặc khuyến nghị quốc tế và khuyến khích hai bên tham gia tích cực vào các tổ chức tiêu chuẩn hóa quốc tế và khu vực.

Cụ thể, hai bên khuyến khích các cơ quan về tiêu chuẩn hóa của mình: (i) tham gia vào việc xây dựng các tiêu chuẩn quốc tế của các tổ chức tiêu chuẩn hóa quốc tế; (ii) sử dụng các tiêu chuẩn quốc tế có liên quan làm cơ sở cho các tiêu chuẩn đang được xây dựng, chỉ trừ trường hợp không phù hợp với đặc thù của bên mình như yếu tố khí hậu, địa lý, vấn đề thiếu hụt công nghệ; (iii) tránh trùng lặp, hoặc chồng chéo với  công việc của tổ chức tiêu chuẩn hoá quốc tế; (iv) rà soát các tiêu chuẩn của quốc gia và khu vực mà chưa phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế nhằm làm tăng cường tính phù hợp giữa các tiêu chuẩn này với nhau; (v) tăng cường hợp tác giữa các cơ quan tiêu chuẩn hoá liên quan của nhau.

Hai bên cũng cam kết tăng cường trao đổi thông tin song phương về việc sử dụng các tiêu chuẩn kỹ thuật trong việc hỗ trợ áp dụng các quy chuẩn kỹ thuật; quy trình nội bộ về tiêu chuẩn hóa; mức độ sử dụng tiêu chuẩn quốc tế.

Một điểm đáng chú ý là, Chương này quy định việc thừa nhận các tiêu chuẩn kỹ thuật là áp dụng theo cơ chế tự nguyện. Nếu một bên lựa chọn áp dụng các tiêu chuẩn như là điều kiện bắt buộc thông qua việc gắn hoặc dẫn chiếu trong các quy chuẩn kỹ thuật hoặc quy trình đánh giá sự phù hợp thì phải thực hiện các nghĩa vụ về minh bạch hóa.

2.3. Thủ tục đánh giá sự phù hợp

Hai bên thừa nhận nhiều cơ chế hiện có nhằm tạo thuận lợi cho việc chấp nhận kết quả đánh giá sự phù hợp được thực hiện tại lãnh thổ của Bên kia.

Một điểm lưu ý khác trong nội dung về quy trình đánh giá sự phù hợp là phí đánh giá tính phù hợp mà bắt buộc áp dụng cho hàng hóa nhập khẩu, phí này phải được tính công bằng với tất cả các sản phẩm tương tự của trong nước hoặc của nước khác. Có nghĩa là mức phí này phải được áp dụng trên cơ sở không phân biệt đối xử, tuy nhiên không có nghĩa là mức phí là hoàn toàn giống nhau cho một loại hàng hóa dù là trong nước hay hàng nhập khẩu vì còn phải tính đến chi phí thông tin liên lạc, phí vận chuyển, phí phát sinh khác do sự khác biệt về địa điểm của người nộp đơn và tổ chức đánh giá sự phù hợp.

2.4. Minh bạch hóa

Hai bên cam kết đảm bảo công khai minh bạch và cung cấp miễn phí các quy chuẩn kỹ thuật và quy trình đánh giá sự phù hợp đã ban hành hoặc có hiệu lực trên các trang thông tin điện tử của hai bên. Cụ thể, phải đảm bảo:

- Cân nhắc ý kiến góp ý của bên kia trong quá trình xây dựng quy chuẩn kỹ thuật nếu quá trình này được công khai lấy ý kiến công chúng;

- Cho phép những đối tượng quan tâm của bên kia tham gia tham vấn công khai trong quá trình xây dựng quy chuẩn kỹ thuật;

- Khi thực hiện nghĩa vụ thông báo theo Hiệp định TBT thì phải cho phép trong khoảng thời gian tối thiểu 60 ngày để bên kia góp ý bằng văn bản đối với dự thảo quy chuẩn kỹ thuật, cung cấp cho bên kia bản điện tử của thông báo, phải trả lời bằng văn bản đối với góp ý của bên kia về dự thảo của quy chuẩn, cung cấp cho bên kia thông tin về việc ban hành, hiệu lực và nội dung văn bản chính thức được ban hành;

- Phải cho phép đủ thời gian kể từ lúc ban hành quy chuẩn đến thời điểm có hiệu lực để các bên liên quan có điều kiện thích ứng với quy định mới này. Tuy nhiên cũng có trường hợp ngoại lệ là các quy chuẩn mới được ban hành để giải quyết các vấn đề khẩn cấp về an toàn, sức khỏe, bảo vệ môi trường, hoặc vấn đề an ninh quốc gia.

2.5. Đánh dấu và ghi nhãn sản phẩm

Hai bên cam kết không yêu cầu việc đăng ký, phê duyệt hoặc chứng nhận trước đối với nhãn hoặc dấu sản phẩm và coi đây là điều kiện để cho phép đưa sản phẩm vào lưu thông trên thị trường trong khi sản phẩm đã phù hợp với các yêu cầu kỹ thuật bắt buộc, trừ khi có nguy hại tới đời sống hoặc sức khỏe của con người, vật nuôi hoặc cây trồng, môi trường hoặc an toàn quốc gia.

Trong trường hợp bên nào yêu cầu doanh nghiệp phải có mã nhận dạng duy nhất thì bên đó phải cấp mã cho doanh nghiệp một cách kịp thời và trên cơ sở không phân biệt đối xử.

Các bên cũng cam kết chấp nhận việc ghi nhãn, bao gồm cả nhãn bổ sung/sửa đổi đối với nhãn được thực hiện tại các cơ sở được cấp phép (ví dụ: tại hải quan hoặc kho ngoại quan được cấp phép tại điểm nhập khẩu) ở nước nhập khẩu trước khi phân phối hoặc bán sản phẩm. Hiệp định cũng có quy định về việc các bên phải nỗ lực để chấp nhận dán nhãn không cố định hoặc nhãn rời, hoặc đánh dấu hoặc ghi nhãn nộp cùng hồ sơ đi kèm mà không phải gắn cơ học lên sản phẩm.

2.6. Giám sát thị trường thực thi

Hai bên cam kết không có xung đột lợi ích giữa các cơ quan hậu kiểm và doanh nghiệp, đảm bảo hoạt động hậu kiểm do cơ quan có thẩm quyền thực thi và không có xung đột lợi ích giữa chức năng hậu kiểm và chức năng đánh giá sự phù hợp của các cơ quan này.


Bài viết liên quan