Tin tức

Đánh giá tác động các cam kết chính của Hiệp định CPTPP đối với nhóm sản phẩm chăn nuôi



Các sản phẩm chăn nuôi, bao gồm thịt, trứng, sữa, mật ong… là một trong những nhóm mặt hàng nông nghiệp xuất khẩu chủ lực của nước ta.

Cam kết về thuế nhập khẩu ưu đãi mà các nước thành viên CPTPP dành cho sản phẩm chăn nuôi xuất khẩu của Việt Nam được thể hiện ở bảng sau:

Mặt hàng

Ca-na-đa

Mê-hi-cô

Nhật Bản

Ốt-xtrây-lia

Niu Di-lân

Pê-ru

Xinh-ga-po

Chi-lê

Ma-lay-sia

Bru-nây

Việt Nam

Thịt và chế phẩm từ thịt

- Phần lớn sản phẩm động vật sống: xoá bỏ thuế quan ngay khi Hiệp định có hiệu lực (một số áp dụng hạn ngạch thuế quan hoặc xóa bỏ thuế quan theo lộ trình tối đa 11 năm).

- Sản phẩm thịt tươi hoặc chế biến: áp dụng hạn ngạch thuế quan hoặc xóa bỏ thuế quan theo lộ trình 6 – 11 năm

- Phần lớn xoá bỏ thuế quan ngay khi Hiệp định có hiệu lực.

- Một số loại thịt gà tây, trau bò tươi, gia cầm, chim, phụ phẩm…: Xóa bỏ thuế quan theo lộ trình 5 – 15 năm

- Hơn 30% dòng thuế: xoá bỏ thuế quan ngay khi Hiệp định có hiệu lực

- Còn lại: Cắt giảm hoặc xóa bỏ thuế quan theo lộ trình 2 – 16 năm

Xoá bỏ thuế quan ngay khi Hiệp định có hiệu lực

EIF (trừ thịt lợn đông lạnh xóa bỏ thuế quan theo lộ trình 2 năm)

- Toàn bộ sản phẩm động vật sống, một số sản phẩm thịt: xoá bỏ thuế quan ngay khi Hiệp định có hiệu lực.

- Còn lại: Xóa bỏ thuế quan theo lộ trình 6 – 16 năm

Xoá bỏ thuế quan ngay khi Hiệp định có hiệu lực

Xoá bỏ thuế quan ngay khi Hiệp định có hiệu lực

Phần lớn xoá bỏ thuế quan ngay khi Hiệp định có hiệu lực (ngoại trừ 6 dòng thuế thịt lợn, gà đông lạnh hoặc ướp lạnh áp dụng hạn ngạch thuế quan)

Xoá bỏ thuế quan ngay khi Hiệp định có hiệu lực

Thịt bò tươi/ướp lạnh: xoá bỏ theo lộ trình 3 năm

Thịt lợn tươi/ướp lạnh/đông lạnh: xoá bỏ theo lộ trình 8-10 năm

Thịt gà: xoá bỏ thuế quan theo lộ trình tối đa 13 năm.

Mật ong

Xoá bỏ thuế quan ngay khi Hiệp định có hiệu lực

Xoá bỏ thuế quan ngay khi Hiệp định có hiệu lực

Xóa bỏ thuế quan theo lộ trình 8 năm

Xoá bỏ thuế quan ngay khi Hiệp định có hiệu lực

Xoá bỏ thuế quan ngay khi Hiệp định có hiệu lực

Xoá bỏ thuế quan ngay khi Hiệp định có hiệu lực

Xoá bỏ thuế quan ngay khi Hiệp định có hiệu lực

Xoá bỏ thuế quan ngay khi Hiệp định có hiệu lực

Xoá bỏ thuế quan ngay khi Hiệp định có hiệu lực

Xoá bỏ thuế quan ngay khi Hiệp định có hiệu lực

Xoá bỏ thuế quan ngay khi Hiệp định có hiệu lực

Sữa và các sản phẩm từ sữa

Xoá bỏ thuế quan ngay khi Hiệp định có hiệu lực hoặc áp dụng hạn ngạch thuế quan

Áp dụng hạn ngạch thuế quan hoặc theo lộ trình tốti đa 15 năm

Xoá bỏ thuế quan theo lộ trình tối đa 16 năm.

Một số sản phẩm áp dụng hạn ngạch thuế quan

Xoá bỏ thuế quan ngay khi Hiệp định có hiệu lực

Xoá bỏ thuế quan ngay khi Hiệp định có hiệu lực

Một số sản phẩm xoá bỏ thuế quan ngay khi Hiệp định có hiệu lực, hoặc theo lộ trình tối đa 11 năm

Xoá bỏ thuế quan ngay khi Hiệp định có hiệu lực

Xóa bỏ thuế quan theo lộ trình tối đa 8 năm

Xoá bỏ thuế quan ngay khi Hiệp định có hiệu lực.

Một số sản phẩm áp dụng hạn ngạch thuế quan

Xoá bỏ thuế quan ngay khi Hiệp định có hiệu lực

Xoá bỏ thuế quan ngay khi Hiệp định có hiệu lực hoặc theo lộ trình tối đa 5 năm

Nhìn chung, ngành chăn nuôi của Việt Nam được dự báo là ngành bị ảnh hưởng nhiều từ việc tham gia Hiệp định CPTPP do thuế quan hiện hành của các nước với sản phẩm chăn nuôi không cao, do đó việc hạ thấp hàng rào thuế quan không có nhiều tác động đến gia tăng xuất khẩu, thậm chí còn giảm xuất khẩu do sức cạnh tranh của ngành chăn nuôi nước ta còn yếu, đặc biệt là sản phẩm sữa. Theo tính toán đến năm 2030, xuất khẩu nhóm sản phẩm động vật sống và sản phẩm bơ sữa giảm tương ứng 2,56% và 0,24%, trong khi nhập khẩu tăng tương ứng 1,75% và 8,3%. Đối với thương mại nội khối CPTPP, xuất khẩu động vật sống giảm 12,7%, nhập khẩu được dự báo tăng 4%. Dự báo nhập khẩu sản phẩm bơ sữa từ các nước thành viên CPTPP tăng mạnh (23,5%), trong khi xuất khẩu giảm mạnh (13%).

Theo số liệu thống kê giai đoạn 2019 - 2021, xuất khẩu nhóm hàng chăn nuôi của Việt Nam sang thị trường các nước CPTPP không cho thấy sự tăng trưởng rõ rệt, ngoại trừ thị trường mà nước ta lần đầu tiên có FTA như Canada.

Đối với mặt hàng thịt, xuất khẩu thịt từ Việt Nam sang Canada tăng 153,11% giai đoạn 2020 – 2021, từ mức 516,2 nghìn USD năm 2020 lên mức 1,3 triệu USD năm 2021. Tại các thị trường truyền thống như Singapore, xuất khẩu thịt giảm mạnh từ mức 2,3 triệu USD xuống còn 200 nghìn USD năm 2021; tại thị trường Nhật Bản, xuất khẩu thịt tăng từ mức 378,1 nghìn USD năm 2020 lên 757,3 nghìn nghìn USD năm 2021.

Kim ngạch xuất khẩu mật ong sang Canada tăng gần 400% giai đoạn 2019 – 2020 từ mức 207,98 nghìn USD năm 2019 lên 1,01 triệu USD năm 2020. Kim ngạch xuất khẩu mật ong sang Nhật Bản cũng tăng mạng từ mức 128,3 nghìn USD năm 2020 lên 1,24 triệu USD năm 2021.


Bài viết liên quan