Tin tức

Đánh giá tác động các cam kết chính của Hiệp định CPTPP đối với nhóm ngành dịch vụ du lịch


Kinh tế du lịch Việt Nam đang trên đà phát triển, có sức hấp dẫn và cạnh tranh, được dự báo là một trong những trọng điểm phát triển của thế giới trong thế kỷ 21. Việc Hiệp định CPTPP chính thức có hiệu lực đối với Việt Nam vào ngày 14 tháng 01 năm 2019 đã ảnh hưởng lớn tới hội nhập quốc tế và phát triển kinh tế ở Việt Nam. Đây là cơ hội tốt cho du lịch nước ta phát triển, khẳng định vị thế trên thị trường khu vực và thế giới, đồng thời cũng tạo ra các thách thức đối với kinh tế du lịch Việt Nam.

1. Cam kết chính

Chương 10 – Thương mại dịch vụ xuyên biên giới áp dụng đối với tất cả các dịch vụ được cung cấp qua biên giới giữa các nước Thành viên Hiệp định CPTPP. Trong lĩnh vực du lịch và các dịch vụ liên quan, Việt Nam chỉ cho phép đầu tư nước ngoài để cung cấp dịch vụ đưa khách vào du lịch Việt Nam và lữ hành nội địa đối với khách vào du lịch Việt Nam như là một phần của dịch vụ đưa khách vào du lịch Việt Nam. Việt Nam bảo lưu quyền áp dụng và duy trì bất kỳ biện pháp nào liên quan đến dịch vụ hướng dẫn viên du lịch. Đối với các lĩnh vực du lịch khác, nhà đầu tư được quyền tham gia không hạn chế.

2. Thực trạng năng lực cạnh tranh

Năng lực cạnh tranh du lịch Việt Nam cải thiện đáng kể, từ hạng 67/136 năm 2017 lên hạng 63/140 năm 2019 (theo Báo cáo năng lực cạnh tranh du lịch toàn cầu năm 2019 của Diễn đàn Kinh tế Thế giới).

Du lịch là ngành có tốc độ tăng trưởng rất cao trong thời gian qua. Theo số liệu của Tổng cục Du lịch, tổng thu từ dịch vụ du lịch của Việt Nam từ 417,27 ngàn tỷ đồng năm 2016 lên 637,00 ngàn tỷ, tăng 23,55%/năm (bao gồm cả trượt giá). Lượng khách du lịch vào Việt Nam và du lịch nội địa tăng nhanh. Khách quốc tế năm 2018 là 15,49 triệu lượt khách, tăng gần 20% so với năm 2017. Du lịch nội địa tăng từ 62 ngàn năm 2016 lên 80 ngàn năm 2018, tăng bình quân 13,59%/năm.

Khách du lịch đến Việt Nam chủ yếu là từ Châu Á (77,91%, năm 2018). Khách đến từ các nước Thành viên CPTPP không nhiều, chiếm 14,4% tổng lượt khách nước ngoài năm 2018, trong đó Nhật Bản, Ma-lai-xi-a, Ô-xtrây-li-a chiếm nhiều nhất (lần lượt là 36,91; 24,11; 17,28% tổng khách từ CPTPP đến Việt Nam)   

Đánh giá chung điểm mạnh của du lịch Việt Nam là có hệ thống tài nguyên du lịch phong phú và hấp dẫn với 49 khu du lịch quốc gia, 24 trung tâm du lịch, 12 đô thị du lịch, 7 vùng du lịch, đặc biệt với 8 di sản thế giới tại Việt Nam. Nền văn hoá truyền thống phong phú, đặc sắc, ẩm thực đa dạng. Nền chính trị ổn định; Vị trí địa thế quan trọng, nằm giữa các thị trường du lịch lớn của khu vực. Hơn nữa, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển du lịch, đặc biệt là Nghị quyết 08-NQ/TW và Luật Du lịch 2017, Quỹ hỗ trợ phát triển du lịch sẽ tạo ra những thuận lợi và nguồn lực cho phát triển du lịch. Ngoài ra, lực lượng lao động Việt Nam tương đối dồi dào, nhân lực tham gia vào ngành du lịch Việt Nam ngày càng tăng về số lượng và chất lượng.

Tuy nhiên, có rất nhiều điểm hạn chế, ví dụ như sản phẩm du lịch không đa dạng, trùng lắp, thiếu tính độc đáo vùng miền. Đặc biệt, du lịch Việt Nam bị phân khúc, thiếu tính liên kết giữa các địa điểm, hoặc sự hợp tác giữa các doanh nghiệp chưa cao. Ngoài ra, chưa có chiến lược tiếp thị hiệu quả, đặc biệt là quảng bá sản phẩm ra nước ngoài. Dịch vụ hỗ trợ du lịch còn kém phát triển. Đào tạo nguồn nhân lực cho du lịch thiếu tính chiến lược. Nguồn lực đầu tư cho cơ sở hạ tầng còn chưa đầy đủ và chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển du lịch. Hạn chế về đường bay, cửa khẩu, năng lực vận chuyển, hạn chế về kết nối đến các khu, điểm du lịch khiến ngành du lịch chậm phát triển. Nhiều nơi du lịch còn phát triển tự phát, thiếu tính bền vững, thiếu tính quy luật thị trường, còn coi là ngành phục vụ đơn thuần, không quan tâm thực sự đến lợi ích, giá trị kinh tế, văn hóa. Sự kết nối của cơ quan nhà nước, các tổ chức nghề nghiệp, doanh nghiệp và cộng đồng trong phát triển ngành chưa cao.

3. Đánh giá tác động

Về ngắn hạn, Hiệp định không có tác động nhiều đến ngành du lịch Việt Nam do các doanh nghiệp nước ngoài cần thời gian để gia nhập thị trường. Về dài hạn, hợp tác về kinh tế, chính trị khi tham gia CPTPP với các nước thành viên sẽ mở ra cơ hội phát triển ngành du lịch khá lớn.

Cạnh tranh trong CPTPP buộc người lao động phải chủ động nâng cao trình độ ngoại ngữ, kỹ năng nghề, tinh thần liên kết gắn với các nhóm lao động đặc thù và lợi ích xã hội khác nhau trong môi trường quốc tế ngày càng cao. Xu thế chuyển dịch lao động giữa các nước Thành viên vừa tạo cơ hội tìm kiếm việc làm mới, vừa gia tăng áp lực cho lao động ngành du lịch tìm kiếm và giữ cơ hội việc làm, nhất là lao động trẻ. Do vậy, phát triển thị trường lao động có tổ chức, chất lượng cao đang và sẽ ngày càng trở thành đòi hỏi bức xúc và công cụ đắc lực để hỗ trợ và phát triển nguồn nhân lực Việt Nam nói chung và lao động ngành du lịch nói riêng trong bối cảnh đó.

Nhờ CPTPP, hoạt động kinh doanh du lịch sẽ có thêm cơ hội cạnh tranh lành mạnh, phát triển tích cực; khách du lịch quốc tế có thêm cơ hội làm thủ tục thuận lợi, dịch chuyển nhanh, rẻ hơn và được cung cấp dịch vụ chất lượng hơn.

Các cam kết không trực tiếp với ngành du lịch như việc nới lỏng điều kiện tự do đầu tư, di chuyển lao động giữa các nước Thành viên sẽ gia tăng nhu cầu đi lại, tìm kiếm cơ hội đầu tư, việc làm, kết hợp với du lịch, từ đó gia tăng dòng du khách quốc tế, tăng cường các loại hình du lịch – kinh doanh, du lịch – hội họp trong nội khối CPTPP. Các cam kết về môi trường cũng thúc đẩy sự cải thiện môi trường sống, cơ sở hạ tầng du lịch thiên nhiên do việc siết chặt các yêu cầu về vệ sinh dịch tễ và môi trường sống, cấm buôn bán động vật hoang dã, nhất là đối với các loại động vật trong sách đỏ (5/11 nước thành viên nằm trong danh sách các nước đa dạng sinh học hàng đầu thế giới).

Như vậy, tham gia CPTPP, lượng khách quốc tế, doanh thu từ du lịch, đầu tư đến năm 2030 dự kiến sẽ tiếp tục tăng trưởng cao, đồng thời năng lực cạnh tranh của du lịch Việt Nam sẽ được cải thiện đáng kể.

Nguồn: Bộ Công Thương 


Bài viết liên quan