1. Cam kết chính
Các nghĩa vụ tạo lập và duy trì môi trường bình đẳng cho đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực dịch vụ tài chính: các cam kết về lĩnh vực dịch vụ tài chính (DVTC) điều chỉnh các biện pháp do cơ quan quản lý của 1 nước thành viên áp dụng đối với tổ chức tài chính của nước thành viên CPTPP khác hoạt động trên lãnh thổ của mình, nhà đầu tư và khoản đầu tư nước ngoài trên lãnh thổ của mình và dịch vụ tài chính qua biên giới; đồng thời, xác lập môi trường pháp lý cho hoạt động cung cấp các DVTC ngân hàng trên thị trường các nước CPTPP. Các cam kết này bao gồm các nghĩa vụ cốt là: Đối xử quốc gia (NT), Đối xử tối huệ quốc (MFN), Mở cửa thị trường (MA), Thương mại qua biên giới (CBT), Nhân sự cấp cao và Hội đồng Quản trị (SMBD).
Ngoài các nghĩa vụ cốt lõi về tạo lập môi trường bình đẳng, không phân biệt đối xử với nhà đầu tư nước ngoài như nêu trên, nước thành viên cần áp dụng các biện pháp bảo hộ đầu tư nước ngoài (được quy định chung tại Chương Đầu tư và áp dụng chéo sang Chương Dịch vụ tài chính).
Cam kết mới về lĩnh vực dịch vụ tài chính trong Hiệp định CPTPP:
Ngoài các điều khoản tiêu chuẩn của một FTA, Hiệp định CPTPP đặt ra các yêu cầu cam kết ở một mức độ cao hơn nhằm hướng tới một trường đầu tư thuận lợi dành cho các nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực dịch vụ tài chính. Đối với các nội dung này, Việt Nam đều có hướng xử lý kỹ thuật để đảm bảo quyền cấp phép của cơ quan quản lý tài chính cũng như đảm bảo được các quyền, lợi ích của Việt Nam khi tham gia vào CPTPP. Các nội dung cam kết mới bao gồm:
- Quyền của cơ quan quản lý của Việt Nam: (i) Việt Nam bảo lưu quyền áp dụng và duy trì bất kì biện pháp nào liên quan đến quá trình cổ phần hóa của các ngân hàng thương mại Nhà nước và tái cơ cấu tổ chức tín dụng tại Việt Nam; ii) Việt Nam có thể cấp ưu đãi hoặc đặc quyền cho các tổ chức tài chính phát triển, ngân hàng hợp tác xã, quỹ tín dụng nhân dân, và tổ chức tài chính vi mô bao gồm nhưng không hạn chế bởi các tổ chức sau Ngân hàng Chính sách Xã hội Việt Nam, Ngân hàng Phát triển Việt Nam, Ngân hàng Hợp tác xã Việt Nam, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam, Cơ quan tái cho vay thế chấp nhà ở; (iii) Đối với các dịch vụ tài chính mới, Việt Nam duy trì quyền áp dụng các chương trình thí điểm đối với dịch vụ tài chính mới. Trong quá trình áp dụng thí điểm, Việt Nam có thể hạn chế về số lượng nhà cung cấp dịch vụ tài chính tham gia chương trình thí điểm hoặc hạn chế về phạm vi chương trình thí điểm; (iv) Đối với các dịch vụ tài chính mà Việt Nam không cam kết trong Phụ lục CBT, Việt Nam duy trì quyền áp dụng và duy trì các biện pháp liên quan đến việc mua dịch vụ tài chính từ các nhà cung cấp dịch vụ tài chính qua biên giới của người cư trú tại Việt nam; (v) Việt Nam có quyền áp dụng các yêu cầu về đăng ký và cấp phép đối với các nhà cung cấp dịch vụ tài chính qua biên giới của Bên khác và đối với các công cụ tài chính; (vi) Việt Nam bảo lưu quyền ban hành và duy trì các biện pháp bao gồm nhưng không giới hạn ở các biện pháp hỗ trợ tài chính như các khoản cho vay có hỗ trợ từ Chính phủ, bảo lãnh và bảo hiểm liên quan đến các hoạt động nhằm mục tiêu công: bảo hiểm và trợ cấp an sinh, trợ cấp xã hội, phúc lợi xã hội, phát triển xã hội, nhà ở xã hội, xóa đói giảm nghèo, giáo dục phổ thông, sức khỏe và chăm sóc trẻ em, tạo phúc lợi xã hội và công ăn việc làm cho đồng bào thiểu số và người dân sinh sống tại các địa bàn khó khăn; hỗ trợ phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ; và các khoản trợ cấp một lần để thúc đẩy và tạo thuận lợi cho quá trình cổ phần hóa.
Nhìn chung, phần lớn các quy định, cam kết cụ thể của Việt Nam về lĩnh vực ngân hàng là phù hợp và thống nhất với pháp luật của Việt Nam. Một số quy định mặc dù chưa tương thích (chủ yếu liên quan đến phần định nghĩa, giải thích khái niệm trong các FTA) nhưng có thể áp dụng trực tiếp mà không có cản trở về mặt pháp lý thì không cần thiết phải xây dựng, sửa đổi, bổ sung văn bản pháp luật.
Một số nội dung chưa tương thích với pháp luật Việt Nam cần phải có văn bản hướng dẫn cụ thể để triển khai thực hiện, bao gồm (i) thương mại qua biên giới, (ii) dịch vụ tài chính mới, và (iii) chuyển thông tin.
2. Thực trạng năng lực cạnh tranh
Tính đến cuối năm 2017, hệ thống các tổ chức tín dụng tại Việt Nam bao gồm 01 ngân hàng 100% vốn Nhà nước, 03 ngân hàng do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ, 03 ngân hàng thương mại cổ phần mua bắt buộc, 28 ngân hàng thương mại cổ phần, 02 ngân hàng thuộc khối ngân hàng chính sách, 01 Ngân hàng Hợp tác xã Việt Nam, 09 ngân hàng 100% vốn nước ngoài, 02 ngân hàng liên doanh, 49 chi nhánh Ngân hàng nước ngoài, 47 văn phòng đại diện,16 công ty tài chính, 11 công ty cho thuê tài chính, 04 tổ chức tài chính vi mô và 1.178 quỹ tín dụng nhân dân. Hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện nay có một số điểm mạnh và điểm yếu nổi bật như sau:
Ngành ngân hàng Việt Nam có một số điểm mạnh như: Niềm tin vào hệ thống ngân hàng đang tăng đặc biệt là các ngân hàng trong nước. Quản trị nợ xấu ngày càng được cải thiện. Quản lý rủi ro tín dụng đã dần theo hướng áp dụng thông lệ quốc tế Basel I và dần ứng dụng Basel II, Basel III. Các sản phẩm dịch vụ dần đa dạng hóa. Bên cạnh các sản phẩm cốt lõi như cho vay và huy động vốn, ngân hàng đã và đang tăng cường đầu tư áp dụng yếu tố công nghệ vào sản phẩm mang tính cạnh tranh như sản phẩm thẻ (thẻ tín dụng, thẻ trả trước, thẻ đồng thương hiệu, thẻ tín dụng quốc tế) và dịch vụ ngân hàng điện tử phục vụ đa dạng các loại khách hàng từ cá nhân đến doanh nghiệp. Ngoài ra, nhiều ngân hàng còn cung cấp dịch vụ thanh toán tự động hóa đơn các mặt hàng thiết yếu như điện, nước, điện thoại... cho khách hàng. Một số ngân hàng thương mại lớn bắt đầu tìm hiểu và cung cấp các dịch vụ tài chính cao cấp như tư vấn M&A...
Điểm hạn chế là so với các thị thường khác trong CPTPP, các sản phẩm dịch vụ cho các thị trường quốc tế chưa đa dạng, nguồn thu chính của các ngân hàng Việt Nam hiện nay chủ yếu dựa vào hoạt động tín dụng. Tuy nhiên, tỷ lệ thu nhập ngoài lãi suất chỉ chiếm khoảng 26% so với các ngân hàng thương mại khác trên thế giới (30- 40%) thì đây là mức thu còn khá khiêm tốn. Thương hiệu của hầu hết các ngân hàng thương mại (NHTM) chưa mạnh. Các tỷ lệ đảm bảo an toàn chưa cao, chưa hoàn toàn thực hiện áp dụng Basel II trong quản trị điều hành: Hệ số an toàn vốn (CAR) của các tổ chức tín dụng (TCTD) trong các năm đều vượt mức 9% do ngân hàng nhà nước (NHNN) quy định, nhưng chưa tính đầy đủ theo tiêu chuẩn Basel II mà mới áp dụng Basel I và một phần nhỏ Basel II. Ngoài ra, phần lớn chuẩn mực kế toán của Việt Nam vẫn chưa hoàn toàn hòa nhập vào phần còn lại của thế giới nên nếu áp dụng cách tính hệ số CAR theo Basel II thì hệ số CAR của các ngân hàng sẽ thấp hơn mức công bố hiện tại, nên nhiều ngân hàng đang gấp rút tăng vốn để tỷ lệ này theo Basel II vẫn đáp ứng chuẩn. Ngoài ra, thị trường vốn có quy mô còn quá nhỏ, thanh khoản yếu, thiếu hấp dẫn, chưa đủ khả năng thu hút mạnh các dòng vốn đầu tư nước ngoài, nhất là các dòng vốn lớn.
3. Đánh giá tác động
Đối với hệ thống ngân hàng nói riêng, các cam kết mở cửa thị trường trong lĩnh vực ngân hàng trong CPTPP có thể không có nhiều ảnh hưởng trực tiếp do mức độ mở cửa của Việt Nam theo cam kết này tương đương với mức mở cửa trong khuôn khổ Hiệp định WTO. Kết quả tính toán cho thấy tính đến năm 2030, tham gia CPTPP tác động làm giảm xuất khẩu ngành ngân hàng 0,62%, tăng nhập khẩu 1,26%. Xuất khẩu và nhập khẩu trong nội khối CPTPP cũng có kết quả tương tự.
Tham gia CPTPP sẽ giúp ngành ngân hàng có nhiều thuận lợi hơn khi cầu về dịch vụ ngân hàng gia tăng theo sự phát triển của xuất nhập khẩu và các ngành sản xuất kinh doanh, cơ hội đầu tư kinh doanh dịch vụ ngân hàng tại thị trường các nước thành viên CPTPP và cơ hội hợp tác với các đối tác CPTPP có thể thúc đẩy quá trình chuyển giao kiến thức, công nghệ và kỹ năng quản trị cũng như nâng cao năng lực cạnh tranh. Tuy nhiên, hệ thống ngân hàng nói riêng cũng có thể gặp phải một số thách thức như sự cạnh tranh từ các ngân hàng nước ngoài trên thị trường Việt Nam ngày càng lớn và sự hội nhập ngày càng sâu rộng cũng đặt ra các yêu cầu cao về ứng dụng công nghệ trong cung cấp dịch vụ, bảo mật thông tin, quản trị và bảo vệ an toàn dữ liệu thông tin.
Tác động đối với công tác hoàn thiện pháp luật nhằm phát triển bền vững hệ thống tài chính, tiền tệ: Một số nội dung trong CPTPP chưa tương thích với pháp luật Việt Nam sẽ được bổ sung ở các văn bản pháp luật để triển khai thực hiện, bao gồm (i) thương mại qua biên giới, (ii) dịch vụ tài chính mới và (iii) chuyển thông tin.
CPTPP không có các điều khoản trực tiếp liên quan đến điều hành chính sách tiền tệ của NHNN. Tuy nhiên, với tác động lên xuất nhập khẩu, dịch vụ, đầu tư, công nghệ, tăng trưởng kinh tế thì CPTPP tác động gián tiếp đến điều hành chính sách tiền tệ (CSTT). Một mặt CPTPP tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong dài hạn thông qua nâng cao năng lực sản xuất của nền kinh tế từ việc thu hút đầu tư nước ngoài, đẩy mạnh đầu tư tư nhân, cải tiến năng suất lao động, thu hẹp chênh lệch sản lượng, cải thiện chênh lệch cung cầu ngoại tệ, hỗ trợ phát triển thị trường ngoại tệ cả về chiều rộng lẫn chiều sâu từ các tác động tích cực lên xuất nhập khẩu, thu hút đầu tư nước ngoài, gia tăng nguồn cung ngoại tệ, trong khi đó các yêu cầu chặt chẽ hơn về nguồn nguyên liệu có thể góp phần thúc đẩy sử dụng nguyên liệu thay thế trong nước, giảm áp lực lên cầu ngoại tệ.
Mặt khác, CPTPP đòi hỏi Việt Nam hội nhập sâu hơn, gia tăng độ mở nền kinh tế. Điều này khiến kinh tế Việt Nam có thể bị ảnh hưởng nhanh và mạnh hơn từ những cú sốc kinh tế toàn cầu và khu vực, tạo áp lực lên lãi suất, tỷ giá trong nước, gây khó khăn, thách thức cho điều hành CSTT trong quá trình ổn định lãi suất, tỷ giá.
Nguồn: Bộ Công Thương
