Tin tức

Đánh giá tác động các cam kết chính của Hiệp định CPTPP đối với nhóm ngành dịch vụ bảo hiểm, tài chính (trừ ngân hàng)


Đối với ngành bảo hiểm, CPTPP là cơ hội để thị trường bảo hiểm được mở rộng. Đối với bảo hiểm phi nhân thọ, nhu cầu về bảo hiểm tài sản sẽ tăng lên bởi các hoạt động đầu tư từ các nước thành viên vào Việt Nam cũng như các nước khác đầu tư vào Việt Nam để hưởng ưu đãi bởi xóa bỏ rào cản theo cam kết trong Hiệp định sẽ gia tăng

1. Cam kết chính

Cam kết trong lĩnh vực dịch vụ bảo hiểm

Nội dung cam kết về dịch vụ bảo hiểm, tài chính nằm trong chương thứ 11 trong tổng số 30 chương của Hiệp định. Giống như WTO hay một số FTA khác, CPTPP đưa ra các quy định cốt lõi như: Đối xử quốc gia, Đối xử tối huệ quốc, tiếp cận thị trường và một vài quy định cụ thể về cung cấp dịch vụ tài chính qua biên giới. Theo CPTPP, một nhà cung cấp dịch vụ của một nước thành viên CPTPP có thể cung cấp dịch vụ tài chính tại thị trường của nước tham gia CPTPP khác, nếu các công ty trong nước hoạt động tại thị trường này được phép cung cấp dịch vụ đó.

Các cam kết cụ thể về dịch vụ bảo hiểm:

- Về đối tượng cung cấp, bảo lưu A7 tại CPTPP quy định: thể nhân nước ngoài không được phép cung cấp dịch vụ đại lý bảo hiểm tại Việt Nam.

- Bảo lưu tại B6, CPTPP: Ngoài việc thỏa mãn các điều kiện chung để được cấp giấy phép thành lập và hoạt động, các nhà cung cấp hoặc nhà đầu tư dịch vụ tài chính của một bên kia khi xin phép thành lập doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới tái bảo hiểm và doanh nghiệp tái bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam phải đáp ứng điều kiện bổ sung về số năm kinh nghiệm, mức tổng tài sản, hoạt động kinh doanh có lãi và không vi phạm các quy định về hoạt động kinh doanh bảo hiểm của nước nơi doanh nghiệp đóng trụ sở chính.

- Tại phụ lục xuyên biên giới, chương Dịch vụ tài chính, CPTPP, Việt Nam cam kết đối với dịch vụ bảo hiểm và các dịch vụ liên quan đến bảo hiểm, Điều 11.6.1 (Thương mại qua biên giới) áp dụng đối với việc cung cấp hoặc thương mại qua biên giới các dịch vụ tài chính, trong đó bao gồm dịch vụ môi giới bảo hiểm và dịch vụ phụ trợ bảo hiểm.

Điều 11.6, Chương Dịch vụ tài chính, CPTPP quy định: "Mỗi Bên cho phép những người ở trên lãnh thổ của mình và các công dân của mình ở bất cứ đâu, mua các dịch vụ tài chính từ các nhà cung cấp dịch vụ tài chính qua biên giới của một Bên khác có trụ sở ở trên lãnh thổ của một Bên khác không phải Bên cho phép. Nghĩa vụ này không yêu cầu một Bên cho phép các nhà cung cấp đó kinh doanh hoặc chào hàng trên lãnh thổ của mình". Đây là quy định mới chỉ có tại CPTPP. Đồng thời, Việt Nam có bảo lưu NCM tại A.8 và B.4 có liên quan tới nghĩa vụ này.

- Bảo lưu A8: Doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài khi cung cấp dịch vụ bảo hiểm qua biên giới không cam kết tại phụ lục CBT của Việt Nam chỉ có thể thực hiện qua doanh nghiệp môi giới bảo hiểm được cấp phép thành lập và hoạt động tại Việt Nam; Doanh nghiệp môi giới bảo hiểm nước ngoài cung cấp dịch vụ bảo hiểm qua biên giới không cam kết tại Phụ lục CBT của Việt Nam chỉ có thể môi giới cho doanh nghiệp bảo hiểm hoặc chi nhánh doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ nước ngoài được cấp phép thành lập và hoạt động tại Việt Nam.

- Bảo lưu B4: Đối với các dịch vụ tài chính không được cam kết tại Phụ lục CBT của Việt Nam, Việt Nam bảo lưu quyền ban hành hoặc duy trì các biện pháp liên quan đến việc các cá nhân trên lãnh thổ Việt Nam mua các dịch vụ tài chính từ các nhà cung cấp dịch vụ tài chính qua biên giới.

- Đối với bảo hiểm MAT: Hiện ASEAN đang xây dựng và cập nhật Sổ tay của ASEAN hướng dẫn cung cấp bảo hiểm qua biên giới đối với bảo hiểm hàng hải, bảo hiểm hàng không và hàng hóa quá cảnh quốc tế (bảo hiểm MAT). Theo cam kết WTO/GATS và AFAS, Việt Nam không hạn chế đối với dịch vụ cung cấp bảo hiểm MAT qua biên giới.

Về mặt bản chất, mức độ tự do hóa của dịch vụ phụ trợ bảo hiểm trong CPTPP không có sự chênh lệch so với GATS và các FTA khác, nhưng có sự khác biệt về phương pháp tiếp cận, tức là khác nhau về cách thức liệt kê cam kết.

Về thương mại qua biên giới, CPTPP quy định: mỗi bên cho phép, theo các điều khoản và điều kiện phù hợp với nghĩa vụ đối xử quốc gia, các nhà cung cáp dịch vụ tài chính qua biên giới của Bên khác cung cấp các dịch vụ tài chính theo quy định tại phụ lục 11-A (Thương mại qua biên giới); Không làm ảnh hưởng đến các biện pháp khác về quy định thận trọng đối với thương mại qua biên giới đối với dịch vụ tài chính, một Bên có thể yêu cầu việc đăng ký hoặc cấp phép đối với các nhà cung cấp dịch vụ tài chính qua biên giới của một Bên khác và đối với các công cụ tài chính.

Điều 11.11. Ngoại lệ, Chương 11 Dịch vụ tài chính, CPTPP quy định: Bất kể các quy định nào khác của Chương và Hiệp định này ngoại trừ đối với Chương 2  (Đối xử quốc gia và Mở cửa thị trường đối với hàng hóa), Chương 3 (Quy tắc xuất xứ và các thủ tục chứng nhận xuất xứ), Chương 4 (Dệt may), Chương 5 (Các quy định hải quan và tạo thuận lợi thương mại), Chương 6 (Phòng vệ thương mại), Chương 7 (Các biện pháp vệ sinh an toàn thực phẩm và kiểm dịch động thực vật), Chương 8 (Các quy định về hàng rào kỹ thuật trong thương mại), một Bên sẽ không bị ngăn cản áp dụng hoặc duy trì các biện pháp vì các lý do an toàn thận trọng, bao gồm vì mục đích bảo vệ các nhà đầu tư, người gửi tiền, người có hợp đồng bảo hiểm, hoặc những người mà nhiệm vụ ủy thác do một tổ chức tài chính hoặc một nhà cung cấp dịch vụ tài chính qua biên giới nắm giữ, hoặc để bảo đảm tính toàn vẹn và ổn định của hệ thống tài chính.

Cam kết về dịch vụ phụ trợ bảo hiểm: Về mặt bản chất thì mức độ tự do hóa của dịch vụ phụ trợ bảo hiểm trong CPTPP không có sự chênh lệch với GATS và các FTA khác, tuy nhiên có sự khác biệt về phương pháp tiếp cận, tức là khác nhau về cách thức liệt kê cam kết. Trong CPTPP, cách thức liệt kê cam kết theo phương pháp “chọn bỏ” là phương pháp được đánh giá là chặt chẽ hơn, thông qua cơ chế cam kết “chỉ tiến không lùi” (rachet mechanism) áp dụng với các biện pháp NCM (biện pháp không tương thích). Cơ chế rachet quy định các nước thành viên chỉ được phép sửa đổi các biện pháp NCM theo hướng thuận lợi hơn cho nhà đầu tư CPTPP, hay nói cách khác chỉ có thể tự do hóa hơn chứ không được quay lại mức tự do hóa trước đó.  

Ngoài các nội dung có mức cam kết trong lĩnh vực dịch vụ bảo hiểm bằng mức mở cửa trong WTO, cam kết trong CPTPP có mức mở cửa cao hơn WTO như sau: “Dịch vụ tài chính mới: Cho phép cung cấp dịch vụ tài chính mới cho các nhà cung cấp dịch vụ ở các nước thành viên CPTPP nếu việc cấp phép không yêu cầu sửa đổi hoặc ban hành mới Luật trong nước”. Việt Nam cam kết không phân biệt đối xử giữa các tổ chức tài chính CPTPP và các tổ chức tài chính trong nước (nghĩa vụ đối xử quốc gia-NT) trong trường hợp cho phép cung cấp dịch vụ tài chính mới tại Việt Nam.

Cam kết trong lĩnh vực dịch vụ chứng khoán

Về cơ bản, đối với lĩnh vực dịch vụ chứng khoán, cam kết mở cửa thị trường của Việt Nam trong CPTPP xây dựng trên cơ sở nền cam kết chung của Việt Nam trong WTO và các FTA Việt Nam đã ký kết, trừ một số nội dung được cam kết ở mức cao và mở rộng hơn so với các hiệp định trước đây, cụ thể:

Cam kết về quản lý danh mục đầu tư: Việt Nam cam kết cho phép các tổ chức tài chính nước ngoài cung cấp dịch vụ tư vấn đầu tư và dịch vụ quản lý danh mục đầu tư cho các quỹ đầu tư trong nước theo Phương thức 1 – cung cấp dịch vụ qua biên giới, song chỉ giới hạn việc cung cấp dịch vụ cho công ty quản lý quỹ trong nước đối với phần vốn huy động nhằm mục đích đầu tư bên ngoài lãnh thổ Việt Nam.

Cam kết về chuyển thông tin: Các nước thành viên CPTPP phải cho phép tổ chức tài chính nước ngoài hoạt động trên thị trường của mình được phép chuyển thông tin dạng điện tử hoặc dạng khác vào và ra khỏi lãnh thổ nhằm mục đích xử lý thông tin vì các mục đích hoạt động kinh doanh thông thường. Tuy nhiên, cơ quan quản lý của mỗi nước vẫn duy trì quyền áp dụng các biện pháp liên quan đến bảo mật dữ liệu, thông tin và bí mật cá nhân hay yêu cầu tổ chức tài chính nước ngoài phải xin cấp phép trước từ cơ quan chức năng đối với Bên tiếp nhận thông tin.

Cung cấp dịch vụ tài chính mới: Quy định yêu cầu nước thành viên nếu cho phép tổ chức tài chính của mình cung cấp dịch vụ tài chính mới (mà không cần phải xây dựng mới hoặc sửa đổi luật), thì cũng phải cho phép các tổ chức tài chính của nước thành viên CPTPP khác cung cấp dịch vụ tương tự.

2. Thực trạng năng lực cạnh tranh

Đối với lĩnh vực dịch vụ bảo hiểm

Việt Nam là một thị trường tiềm năng, hứa hẹn sự phát triển mạnh mẽ của hoạt động kinh doanh bảo hiểm và các hoạt động tài chính. Với đặc điểm của từng tiểu ngành, ngành dịch vụ bảo hiểm và tài chính có điểm mạnh điểm yếu như sau:

Điểm mạnh: Số lượng các doanh nghiệp hoạt động trong ngành dịch vụ bảo hiểm, tài chính tăng mạnh trong thời gian gần đây. Trong đó, ngành bảo hiểm Việt Nam có số lượng doanh nghiệp bảo hiểm tăng tương đối nhanh, đặc biệt là doanh nghiệp bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài. Năm 2007, chỉ có 40 doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động trên thị trường, trong đó có 22 doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ, 09 doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ, 01 doanh nghiệp tái bảo hiểm và 08 doanh nghiệp môi giới bảo hiểm. Đến năm 2018, đã có 65 doanh nghiệp bảo hiểm, trong đó có 31 doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ, 18 doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ, 14 doanh nghiệp môi giới bảo hiểm và 02 doanh nghiệp tái bảo hiểm.

Năm 2018, tổng tài sản các doanh nghiệp bảo hiểm ước đạt 394.192 tỷ đồng, tăng 25% so với năm 2017. Trong đó, các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ ước đạt 82.903 tỷ đồng, các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ ước đạt 311.289 tỷ đồng. Năng lực tài chính của các doanh nghiệp bảo hiểm tiếp tục được nâng cao. Bảo hiểm cũng đã đóng góp 2% vào GDP của Việt Nam, với tốc độ tăng trưởng bình quân 29%/năm.

Về dịch vụ phụ trợ bảo hiểm, số lượng các đơn vị cung cấp dịch vụ này ngày càng tăng, các sản phẩm cũng ngày càng đa dạng. Doanh nghiệp bảo hiểm ngày càng sử dụng nhiều dịch vụ phụ trợ bảo hiểm, bao gồm cả 5 loại hình dịch vụ là đánh giá rủi ro bảo hiểm, hỗ trợ giải quyết bồi thường, tư vấn bảo hiểm, giám định tổn thất bảo hiểm và tính toán bảo hiểm.

Điểm yếu:

Riêng đối với ngành bảo hiểm Việt Nam vẫn tồn tại những điểm yếu sau đây: Kênh phân phối sản phẩm bảo hiểm đã bộc lộ nhiều yếu kém. Thiếu nguồn nhân lực được đào tạo bài bản về nghiệp vụ. Bên cạnh đó, đầu tư công nghệ của ngành bảo hiểm còn thiếu đồng bộ và kém hiệu quả; các doanh nghiệp bảo hiểm cạnh tranh gay gắt bằng con đường hạ phí, không chú trọng nhiều đến dịch vụ khách hàng.

Đối với dịch vụ phụ trợ bảo hiểm, do hệ thống pháp luật của Việt Nam còn thiếu quy định chi tiết và cụ thể về loại hình dịch vụ này nên chất lượng dịch vụ không được kiểm soát gây ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển của thị trường bảo hiểm.

Đối với lĩnh vực dịch vụ chứng khoán

Điểm mạnh:

Thể chế và khung pháp lý từng bước được hoàn thiện: Một hệ thống văn bản pháp quy tương đối hoàn thiện đã được ban hành trên thị trường chứng khoán (TTCK) từ luật đến nghị định và các văn bản hướng dẫn thực thi. Bên cạnh đó, các chính sách về thuế, kế toán, kiểm toán, quản lý ngoại hối cũng được ban hành và sửa đổi nhằm đảm bảo khung pháp lý đầy đủ cho thị trường.

Về hàng hóa trên TTCK: Hàng hóa trên TTCK ngày càng được phát triển cả về số lượng và chất lượng. Việc phát triển sản phẩm cũng đã theo thông lệ quốc tế. Thị trường đã có nhiều sản phẩm chứng chỉ quỹ như chứng chỉ quỹ mở, quỹ đóng, quỹ thành viên, quỹ hoán đổi danh mục (ETF), quỹ đầu tư bất động sản... TTCK phái sinh đã ra đời được 02 năm (từ ngày 10/8/2017) với 02 sản phẩm là hợp đồng tương lai (HĐTL) chỉ số VN30 và HĐTL trái phiếu chính phủ. Sản phẩm chứng quyền có đảm bảo cũng đã được triển khai vào tháng 6/2019.

Hiện tại, các công ty chứng khoán đang hoạt động tại Việt Nam đã tập trung vào các hoạt động kinh doanh cơ bản như môi giới, tự doanh, cho vay giao dịch ký quỹ nhưng đã xuất hiện một số công ty chứng khoán có sự chuyển đổi, đa dạng hóa hoạt động như tham gia cung cấp dịch vụ trên TTCK phái sinh, tư vấn tài chính, tư vấn, đại lý, bảo lãnh phát hành trái phiếu. Những công ty chứng khoán nhỏ hơn đã tập trung vào phân khúc khách hàng mà mình có thế mạnh và bắt đầu có kế hoạch, đưa ứng dụng các sản phẩm công nghệ tài chính vào hoạt động liên quan đến dịch vụ môi giới, tư vấn đầu tư chứng khoán.

Điểm yếu:

Hệ thống văn bản pháp quy quản lý TTCK hiện nay vẫn đang trong quá trình nghiên cứu sửa đổi, bổ sung để đáp ứng được yêu cầu về phát triển thị trường. Cơ sở hạ tầng của TTCK vẫn đang trong quá trình xây dựng phù hợp với giai đoạn mới. Mặc dù TTCK đã bổ sung một số sản phẩm trong thời gian gần đây, song vẫn chưa đa dạng, đặc biệt là những sản phẩm phòng ngừa rủi ro cho nhà đầu tư như phái sinh.

3. Đánh giá tác động

Đối với ngành bảo hiểm, CPTPP là cơ hội để thị trường bảo hiểm được mở rộng. Đối với bảo hiểm phi nhân thọ, nhu cầu về bảo hiểm tài sản sẽ tăng lên bởi các hoạt động đầu tư từ các nước thành viên vào Việt Nam cũng như các nước khác đầu tư vào Việt Nam để hưởng ưu đãi bởi xóa bỏ rào cản theo cam kết trong Hiệp định sẽ gia tăng. Đối với bảo hiểm nhân thọ, nhu cầu bảo hiểm nhân thọ và sức khỏe tăng cao về số lượng và chất lượng sản phẩm bởi CPTPP sẽ thúc đẩy các hoạt động đầu tư, phát triển kinh tế góp phần nâng cao thu nhập. Thu nhập tăng dẫn tới khả năng tài chính để đóng góp bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm sức khỏe, nhu cầu bảo hiểm nhân thọ chất lượng cao theo đó cũng gia tăng. Ngoài ra, lượng người nước ngoài làm việc tại Việt Nam gia tăng cũng sẽ góp phần nâng nhu cầu bảo hiểm nhân thọ và sức khỏe. Về thị phần nước ngoài, việc xóa bỏ các rào cản theo cam kết của Hiệp định sẽ tạo cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam xâm nhập vào thị trường của các nước thành viên.

Tham gia CPTPP góp phần cải thiện năng lực tài chính của ngành bảo hiểm, nâng cao uy tín của doanh nghiệp bảo hiểm. Khi thực hiện các cam kết hội nhập, sự can thiệp của nhà nước vào hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp bảo hiểm sẽ ngày càng giảm và hạn chế sự bảo hộ. Các doanh nghiệp bảo hiểm được tham gia vào một sân chơi bình đẳng và mang tính chuyên nghiệp cao. Bối cảnh này tạo điều kiện cho các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam trở nên năng động hơn trong các hoạt động kinh doanh, đồng thời, các doanh nghiệp bảo hiểm có cơ hội thể hiện năng lực và trình độ.

Ngoài ra, CPTPP góp phần đa dạng hóa thị trường bảo hiểm Việt Nam. Các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam trên thị trường bảo hiểm Việt Nam giúp mở rộng cơ hội đa dạng hóa thị trường, nâng cấp chất lượng đa dạng hóa dịch vụ.

Đặc biệt, đối với lĩnh vực dịch vụ phụ trợ bảo hiểm, tham gia CPTPP sẽ tăng cường các nhà cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo hiểm đến từ các nước thành viên CPTPP có thị trường bảo hiểm phát triển như Ca-na-đa và Nhật Bản là những nước thành viên CPTPP, điều mà thị trường Việt Nam đang thiếu.

Đối với TTCK, bên cạnh việc phải đối mặt với sức ép cạnh tranh ngày càng lớn trên cả 3 cấp độ khi mở cửa thị trường, việc dỡ bỏ các rào cản đối với thương mại dịch vụ và đầu tư trong các cam kết quốc tế, mở rộng sự tham gia của các bên nước ngoài, sự kết nối/liên thông với các thị trường tài chính/chứng khoán khu vực và quốc tế, sự luân chuyển của dòng vốn ra/vào sẽ làm cho thị trường tài chính trong nước nói chung và TTCK nói riêng sẽ trở nên nhạy cảm và dễ bị tác động bởi các yếu tố bên ngoài và còn tiềm ẩn nguy cơ cao khi cơ sở hạ tầng chứng khoán không phát triển tương ứng với thị trường.

Mở cửa thị trường dịch vụ theo các cam kết quốc tế đòi hỏi các doanh nghiệp trong nước – trong đó có các công ty đại chúng/công ty niêm yết phải đổi mới, tái cấu trúc, áp dụng các chuẩn mực và thông lệ quốc tế về quản trị công ty, quản trị rủi ro, công bố thông tin…để hoạt động có hiệu quả hơn, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Đối với các công ty chứng khoán/công ty quản lý quỹ, sự tham gia của nhà cung cấp dịch vụ chứng khoán nước ngoài sẽ buộc các công ty chứng khoán/công ty quản lý quỹ trong nước phải tăng cường hợp tác, sáp nhập, hợp nhất, tái cấu trúc, đổi mới hoạt động và tăng khả năng tích lũy để nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ khi cạnh tranh với các nhà cung cấp dịch vụ chứng khoán nước ngoài.

Nguồn: Bộ Công Thương 


Bài viết liên quan