Tin tức

Đánh giá tác động các cam kết chính của Hiệp định CPTPP đối với nhóm ngành dược phẩm


Ngành công nghiệp dược phẩm Việt Nam là thị trường đầy hứa hẹn để phát triển ở Châu Á với nhu cầu ngày càng cao nhờ dân số ngày càng tăng, thu nhập được cải thiện, tốc độ đô thị hóa ngày càng tăng và các điều kiện môi trường, khí hậu có những biến đổi nhất định. Với Hiệp định CPTPP, nhóm ngành dược phẩm chắc chắn cũng sẽ được hưởng những tác động tích cực nhất định

1. Cam kết chính

Vế thuế quan, theo cam kết khi tham gia CPTPP, Việt Nam và các nước còn lại có lộ trình cắt giảm thuế quan riêng dành cho ngành dược phẩm. Nhìn chung, phần lớn mức thuế cho ngành dược phẩm được đưa về 0% trong vòng 5 năm. Xin-ga-po, Bru-nây, Chi-lê, Ca-na-đa, Nhật Bản, Ma-lai-xi-a là những nước xóa bỏ thuế quan hoàn toàn ngay khi Hiệp định có hiệu lực. Pê-ru, Mê-hi-cô và Chi-lê là ba quốc gia có mức cắt giảm mạnh nhất và lộ trình cắt giảm nhanh nhất, tương ứng từ 8,88%; 5,63% và 6% xuống còn 1,04%; 2,47% và 0%. Việt Nam tuy là nước có mức thuế cơ sở thấp (2,11%) nhưng biên độ cắt giảm nhỏ theo từng năm và mức thuế được đưa về 0% sau 20 năm.

Về quy tắc xuất xứ, hàng hóa nếu không đáp ứng quy tắc xuất xứ thuần tuý hoặc sản xuất toàn bộ trong CPTPP thì áp dụng phương pháp xác định xuất xứ bao gồm Quy tắc chuyển đổi mã hàng hóa hoặc Quy tắc hàm lượng giá trị nội khối (ở mức không thấp hơn 35% theo cách tính trực tiếp và 40% theo cách tính gián tiếp).

2. Thực trạng năng lực cạnh tranh

Việt Nam đang đứng thứ 16 trong số 22 nước có ngành công nghiệp dược đang phát triển dựa theo tiêu chí tổng giá trị tiêu thụ thuốc hàng năm. Thống kê của Business Monitor International (BMI) dự đoán quy mô thị trường sẽ tăng lên mức 7,2 tỷ đô la Mỹ năm 2020 và tiếp tục giữ mức tăng trưởng ít nhất 10% trong vòng 5-10 năm tới. Chi tiêu tiền thuốc bình quân đầu người của Việt Nam đang là 33 USD/người/năm, dự báo tăng lên mức 55 USD/người/năm vào 2021. Bên cạnh đó, Việt Nam có khoảng 178 doanh nghiệp sản xuất thuốc nhưng đa phần tập trung ở dạng bào chế đơn giản, dạng generic, giá trị thấp và thiếu các loại thuốc đặc trị. Ngành Dược Việt Nam sử dụng khoảng 60.000 tấn các loại dược liệu, trong đó có khoảng 80-90% dược liệu sử dụng có nguồn gốc nhập khẩu chủ yếu từ Trung Quốc và Ấn Độ. Bên cạnh đó, việc áp dụng công nghệ tiên tiến vào sản xuất còn gặp nhiều khó khăn. Tỷ lệ đầu tư nghiên cứu thuốc mới của các doanh nghiệp trong nước chỉ chiếm khoảng 5% doanh thu trong khi đó các doanh nghiệp nước ngoài là 15%. Tuy nhiên, thị trường nội địa mới chỉ đủ sức đáp ứng được 45% nhu cầu của thị trường.

Về quan hệ thương mại, thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam là các nước ASEAN trong 3 năm trở lại đây, tiếp theo đó là các nước thuộc liên minh châu Âu EU chiếm tỷ trọng khoảng 22%. Đối với nhập khẩu, các doanh nghiệp dược của Việt Nam có đối tác đa dạng, song EU là thị trường nhập khẩu lớn nhất với tỷ trọng luôn ở mức trên 50% trong giai đoạn 2015-2017.

Đánh giá chung, tiềm năng thị trường lớn, tốc độ phát triển thị trường ngành cao (hơn 17% năm 2017) do sự gia tăng tầng lớp thu nhập cao và sự mở rộng bảo hiểm y tế toàn dân, nhu cầu thuốc tăng nhanh, chi phí thuốc bình quân đầu người còn thấp so với bình quân trên thế giới. Chính phủ cũng có những chính sách ưu tiên đối với ngành dược, cộng với xu hướng mua bán - sáp nhập (M&A) của các công ty đa quốc gia giúp tăng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong nước. Dự báo của BMI cho thấy ngành này sẽ tiếp tục đạt mức tăng trưởng cao trong giai đoạn 2018-2023, khoảng 11,8%.

Điểm hạn chế của ngành là: Trình độ sản xuất còn khá thấp, tuy có sản xuất thuốc generic (biệt dược gốc), nhưng chủ yếu trên cơ sở bằng sáng chế của nước ngoài. Tỷ lệ doanh nghiệp có bằng sáng chế thuốc generic đã được đăng ký hiện chưa đến 1% tổng số các doanh nghiệp trong ngành. Các nhà máy trong nước đều sản xuất danh mục sản phẩm tương đối giống nhau. Điều này dẫn đến tình trạng cạnh tranh gay gắt, làm yếu đi năng lực sản xuất của ngành công nghiệp dược Việt Nam nói chung. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong nước còn yếu so với các doanh nghiệp, tập đoàn nước ngoài. Nhiều doanh nghiệp chuyển hướng sản xuất sang sản xuất phụ trợ (tỷ suất sinh lời thấp).

3. Đánh giá tác động

CPTPP không ảnh hưởng nhiều đến ngành dược do có 11/20 điều khoản liên quan đến sở hữu trí tuệ, bảo vệ chặt chẽ quyền lợi của người sở hữu sáng chế bị tạm hoãn. CPTPP hoãn việc yêu cầu các nước thành viên thay đổi luật và thông lệ của mình nhằm bảo vệ các dược phẩm mới, bao gồm cả chế phẩm sinh học, không bị cạnh tranh bởi các thuốc gốc. CPTPP cũng đình chỉ quy định về gia hạn thời hạn bản quyền trong các trường hợp do sự chậm trễ của của cơ quan cấp bằng hoặc những trì hoãn bất hợp lý trong việc cấp bản quyền, cũng như cấp phép nhập khẩu một loại dược phẩm nào đó vào các nước thành viên.

Bên cạnh đó, thị trường dược phẩm sẽ cạnh tranh hơn khi thuế suất nhập khẩu giảm và thời gian bảo hộ đối với thuốc bản quyền dài. Tính tới cuối năm 2017, Việt Nam đã nhập khẩu 2,8 tỷ USD sản phẩm dược và khả năng sẽ tiếp tục gia tăng trong những năm tiếp theo. Trong 11 nước tham gia CPTPP, Nhật Bản, Ca-na-đa, Mê-hi-cô là những quốc gia thuộc 20 nước sản xuất dược phẩm lớn nhất thế giới./.

Nguồn: Bộ Công Thương 


Bài viết liên quan