Tin tức

Đánh giá tác động các cam kết chính của Hiệp định CPTPP đối với nhóm ngành thiết bị vận tải


Mặc dù thuế quan với nhóm ngành này phần lớn được gỡ bỏ ngay khi Hiệp định CPTPP có hiệu lực, lợi ích mang lại không thực sự quá đáng kể do mức thuế quan đã thấp từ các FTA trước đó mà Việt Nam đã ký kết. Các điều kiện về thuế nhập khẩu hàng thiết bị vận tải hiện ở mức rất ưu đãi đối với Nhật Bản và ASEAN...

1. Cam kết chính 

Về thuế quan, những nước cắt giảm thuế quan lớn nhất là Chi-lê, Mê-hi-cô, Ca-na-đa và Niu Di-lân, tương ứng từ mức 5,46%, 8,99%, 5,58% và 3,41% về còn 0,04%, 3,43%, 1,86% và 0,03% trong năm đầu tiên thực thi Hiệp định. Một số thị trường có mức thuế cơ sở cao như Ma-lai-xi-a (17,79%), có tốc độ cắt giảm chậm hơn (về 0% vào năm thứ 13). Việt Nam cam kết cắt giảm từ mức trung bình 27,06% xuống 15,98% trong năm thứ nhất, giảm dần trong các các năm tiếp theo, sau đó về 0% vào năm thứ 13 của Hiệp định.

Về quy tắc xuất xứ, hàng hóa nếu không đáp ứng quy tắc xuất xứ thuần tuý hoặc sản xuất toàn bộ trong CPTPP thì áp dụng phương pháp xác định xuất xứ bao gồm Quy tắc chuyển đổi mã hàng hóa hoặc Quy tắc hàm lượng giá trị nội khối (phổ biến ở mức không thấp hơn 30-35% theo cách tính trực tiếp và 40-55% theo cách tính gián tiếp, 35-45% theo công thức tính chi phí tịnh, 50-60% theo công thức tính giá trị tập trung đối với nguyên liệu không có xuất xứ).

Ngoài ra, còn có điều khoản riêng liên quan đến quy tắc cụ thể mặt hàng cho xe và các bộ phận, phụ kiện của chúng liên quan đến công đoạn sản xuất ra nguyên liệu và trị giá nguyên liệu phải đáp ứng yêu cầu nhất định.

2. Thực trạng năng lực cạnh tranh

Việt Nam hiện nay chủ yếu là nhập khẩu thiết bị cho lắp ráp và tiêu thụ nội địa. Tỷ lệ nhập khẩu thiết bị vận tải của Việt Nam từ các nước Thành viên CPTPP chiếm khoảng 17,3% tổng kim ngạch nhập khẩu năm 2017. Nhật Bản là thị trường Việt Nam nhập khẩu hàng thiết bị vận tải lớn nhất của Việt Nam trong khối các nước thành viên CPTPP (chiếm 14,1% so với tổng giá trị nhập khẩu nhóm hàng này).

Với nhóm ngành ô tô, theo báo cáo của Hiệp hội các nhà sản xuất ô tô Việt Nam (VAMA), năm 2018, mức tiêu thụ toàn ngành lên tới 352 nghìn xe. Các xe lắp ráp trong nước là khoảng 220 nghìn, tăng 10,6% so với năm 2017. Xe nhập khẩu đạt gần 73 nghìn xe, giảm 6,2% so với năm trước. Việt Nam nhập chủ yếu từ ASEAN (chiếm 88,8%) do trong các năm gần đây thuế quan giảm mạnh. Về nhập khẩu linh kiện và phụ tùng ô tô, trong năm 2018, giá trị nhập khẩu đạt 3,58 tỷ USD, tăng 9,3% so với năm 2017. Các thị trường nhập khẩu linh kiện và phụ tùng ô tô chính của Việt Nam gồm ASEAN (24,6%), Hàn Quốc (23%), Nhật Bản (21,8%), Trung Quốc (16,6%) và EU (6,9%).

Về xe máy, thị trường nội địa tăng nhanh trong các năm gần đây (năm 2015 là 2,8 triệu xe, năm 2018 là 3,3 triệu xe). Năm 2018, kim ngạch nhập khẩu mặt hàng xe máy và linh kiện đạt 654 triệu USD, tăng 46,9% so với năm 2017.

Xuất khẩu thiết bị vận tải sang các nước Thành viên CPTPP chiếm khoảng 32,1% tổng kim ngạch xuất khẩu ngành năm 2017. Nhật Bản và Xinh-ga-po là hai thị trường xuất khẩu thiết bị vận tải lớn của Việt Nam (tỷ trọng lần lượt ở mức 15,8% và 7% so với tổng giá trị xuất khẩu của ngành).

Nhìn chung, Việt Nam có tiềm năng phát triển ngành hàng này. Hiện có khoảng 1.309 doanh nghiệp, với quy mô bình quân khoảng 185,71 lao động/doanh nghiệp, ở mức cao so với các ngành khác. Thị trường nhiều tiềm năng do dân số đông, tỉ lệ xe trên dân số thấp và thu nhập bình quân đầu người đang tăng nhanh. Vị trí địa lý thuận lợi để gia nhập chuỗi cung ứng ASEAN và châu Á khi khu vực ASEAN là trung tâm sản xuất ô tô chính trên thế giới. Nhiều hãng sản xuất ô tô lớn đã đầu tư ở Việt Nam.

Điểm hạn chế của ngành là hiện mới phát triển chủ yếu ở khâu lắp ráp từ linh kiện nhập khẩu. Nguyên nhân chính là năng lực sản xuất và cạnh tranh của các doanh nghiệp sản xuất linh kiện không cao. Hiện nay, sản xuất trong nước mới chỉ đáp ứng được khoảng 60 - 70% nhu cầu tiêu dùng trong nước, và đang chịu áp lực cạnh tranh từ xe nhập khẩu.

3. Đánh giá tác động

Mặc dù thuế quan với nhóm ngành này phần lớn được gỡ bỏ ngay khi Hiệp định CPTPP có hiệu lực, lợi ích mang lại không thực sự quá đáng kể do mức thuế quan đã thấp từ các FTA trước đó mà Việt Nam đã ký kết. Các điều kiện về thuế nhập khẩu hàng thiết bị vận tải hiện ở mức rất ưu đãi đối với Nhật Bản và ASEAN... Theo tính toán, đến năm 2030, xuất khẩu xe cơ giới và thiết bị vận tải khác tăng tương ứng 2,93% và 0,06%, trong khi nhập khẩu tăng mạnh hơn xuất khẩu, tương ứng 1,89% và 7,44%. 

Trái lại, trong thương mại nội khối, mặc dù tác động của CPTPP đến xuất khẩu sang các nước trong khối không lớn (xe cơ giới tăng 4% và thiết bị vận tải khác giảm 0,9%), tác động đến nhập khẩu từ các nước thành viên CPTPP được dự báo tăng mạnh (nhập khẩu xe cơ giới tăng 57% và thiết bị vận tải khác tăng 54%).

Việt Nam xuất khẩu phương tiện vận tải và phụ tùng sang khu vực CPTPP năm 2018 đạt khoảng 3,4 tỷ USD, chủ yếu từ Nhật Bản. Các mặt hàng chủ yếu thuộc nhóm này là ghế ngồi cho phương tiện bay, mô tô, xe máy, ắc quy và săm lốp ô tô. Các nhóm này có thuế suất MFN là 0% hoặc rất thấp và giảm xuống bằng 0% ngay khi Hiệp định có hiệu lực nên sẽ không có sự tác động và gia tăng xuất khẩu đột biến mà phụ thuộc vào nhu cầu của Nhật Bản và khả năng đáp ứng của sản xuất trong nước. Đối với mặt hàng ô tô, Việt Nam hầu như chưa xuất khẩu được ô tô do ngành sản xuất trong nước chưa đáp ứng đủ nhu cầu.

Các nước thành viên CPTPP không phải là các quốc gia phát triển ngành công nghiệp ô tô, trừ Nhật Bản. Hiện nay, Việt Nam nhập khẩu ô tô từ Nhật Bản nhưng không nhiều. Thuế nhập khẩu ô tô sẽ về 0% vào năm thứ 13 sau khi Hiệp định CPTPP có hiệu lực. Trong khi, hàng năm Việt Nam vẫn phải nhập khẩu khoảng 100.000 xe phục vụ tiêu dùng nội địa. Điều này có thể làm gia tăng nhập khẩu từ các nước thành viên CPTPP để phục vụ nhu cầu nội địa, đặc biệt là từ Nhật Bản./.

Nguồn: Bộ Công Thương

Bài viết liên quan