Báo cáo được đặt trong bối cảnh thương mại quốc tế đang chậm lại khi nền kinh tế toàn cầu phải vật lộn với một số cú sốc liên kết với nhau, bao gồm chiến tranh ở Ukraine, lạm phát cao, sự tàn phá do một số sự kiện liên quan đến biến đổi khí hậu và tác dụng phụ kéo dài từ COVID-19 đại dịch. Khối lượng thương mại hàng hóa thế giới dự kiến sẽ tăng 3,5% vào năm 2022, với tốc độ tăng chậm lại trong nửa cuối năm. Thương mại ước tính sẽ giảm tốc hơn nữa vào năm 2023, với mức tăng chỉ 1,0% trong năm, giảm mạnh so với ước tính trước đó là 3,4%. Tăng trưởng GDP toàn cầu ước tính đạt 2,8% vào năm 2022 và 2,3% vào năm 2023. Các quốc gia có thu nhập thấp nằm trong số những quốc gia dễ bị tổn thương nhất trước những diễn biến này, do chi phí gia tăng, nguồn cung cấp lương thực và năng lượng giảm làm dấy lên lo ngại về an ninh lương thực và nợ nần chồng chất.
Lạm phát năm 2022 là mức cao nhất mà một số quốc gia đã trải qua trong nhiều thập kỷ. Tăng lãi suất là công cụ phổ biến được một số Ngân hàng Trung ương sử dụng để kiểm soát lạm phát, nhưng không phải không có rủi ro hoặc hậu quả. Chính sách tiền tệ thắt chặt quá mức có thể khiến lạm phát tiếp tục gia tăng, trong khi thắt chặt quá mức có thể khiến các nền kinh tế rơi vào suy thoái. Hiệu ứng lạm phát tiềm năng giữa các quốc gia từ các chính sách khác nhau và sự tăng giá của đồng đô la Mỹ là những nguồn gây áp lực lạm phát đối với một số nền kinh tế.
Đại dịch COVID-19 đã thu hút sự chú ý đến những thất bại thị trường tiềm ẩn trong tổ chức chuỗi giá trị và sự gián đoạn đối với GVC đã trở thành tin tức hàng đầu kể từ đó. Trong khi các ngành công nghiệp và khu vực bị ảnh hưởng theo những cách khác nhau, chuỗi cung ứng đã chứng tỏ khả năng phục hồi trong đại dịch và kể từ khi chiến tranh bùng nổ ở Ukraine.
Tốc độ thực hiện các biện pháp hạn chế xuất khẩu của các Thành viên WTO đã tăng lên kể từ năm 2020, trước tiên là trong bối cảnh đại dịch và sau đó là cuộc chiến ở Ukraine và cuộc khủng hoảng lương thực. Từ giữa tháng 10 năm 2021 đến giữa tháng 10 năm 2022, các Thành viên WTO dần dỡ bỏ một số hạn chế xuất khẩu này. Tính đến giữa tháng 10 năm 2022, 52 hạn chế xuất khẩu đối với thực phẩm, thức ăn chăn nuôi và phân bón và 27 hạn chế xuất khẩu liên quan đến COVID-19 đối với các sản phẩm thiết yếu để chống lại sự lây lan của vi-rút vẫn còn hiệu lực.
Trong giai đoạn xem xét, các Thành viên WTO đã đưa ra nhiều biện pháp tạo thuận lợi thương mại (376) hơn là hạn chế thương mại (214) đối với hàng hóa, không liên quan đến đại dịch. Số lượng trung bình các biện pháp tạo thuận lợi thương mại mỗi tháng được ghi nhận là cao nhất kể từ năm 2012. Hầu hết các biện pháp tạo thuận lợi được thực hiện ở phía nhập khẩu trong khi hầu hết các hạn chế thuộc về phía xuất khẩu. Lần đầu tiên kể từ khi bắt đầu Thực hiện Giám sát Thương mại, số lượng các biện pháp hạn chế xuất khẩu đã nhiều hơn số lượng các biện pháp hạn chế nhập khẩu. Phạm vi thương mại của các biện pháp tạo thuận lợi thương mại ước tính là 1.160,5 tỷ USD và của các biện pháp hạn chế thương mại là 278,0 tỷ USD.
Kho dự trữ hạn chế nhập khẩu có hiệu lực tiếp tục tăng lên. Đến giữa tháng 10 năm 2022, khoảng 9,3% giá trị nhập khẩu toàn cầu tiếp tục bị ảnh hưởng bởi các biện pháp hạn chế nhập khẩu được áp dụng từ năm 2009 và vẫn còn hiệu lực.
Các vụ khởi xướng điều tra phòng vệ thương mại của các Thành viên WTO đã giảm mạnh trong giai đoạn xem xét (10,9 vụ khởi xướng mỗi tháng, thấp nhất kể từ năm 2012) sau khi đạt mức cao nhất vào năm 2020 (36,1 vụ khởi xướng mỗi tháng). Các biện pháp phòng vệ thương mại vẫn là một công cụ chính sách thương mại quan trọng đối với nhiều Thành viên WTO, chiếm 37,4% trong tổng số các biện pháp thương mại không liên quan đến COVID-19 đối với hàng hóa được ghi trong Báo cáo này. Chống bán phá giá tiếp tục là hành động phòng vệ thương mại thường xuyên nhất xét về số lần khởi xướng và chấm dứt.
Trong các lĩnh vực dịch vụ, 174 biện pháp mới đã được các Thành viên WTO đưa ra, một phần ba trong số đó nhắm vào các dịch vụ viễn thông, máy tính và Internet cũng như các dịch vụ hỗ trợ mạng khác và một phần tư ảnh hưởng đến các dịch vụ tài chính. Mặc dù hầu hết các biện pháp mới có tính chất tạo thuận lợi cho thương mại, nhưng một số đáng kể là hạn chế thương mại.
Việc thực hiện các biện pháp mới liên quan đến COVID-19 của các Thành viên WTO đã giảm tốc trong 12 tháng qua, với 45 biện pháp như vậy được ghi nhận đối với hàng hóa và 4 biện pháp đối với dịch vụ. Thông tin bổ sung do các Thành viên WTO truyền đạt chủ yếu bao gồm việc chấm dứt các biện pháp hiện hành hoặc sửa đổi các biện pháp khác. Nhiều biện pháp liên quan đến COVID-19 ảnh hưởng đến thương mại dịch vụ vẫn còn hiệu lực. Số lượng các biện pháp hỗ trợ mới liên quan đến COVID-19 của các Thành viên WTO và Quan sát viên nhằm giảm thiểu tác động kinh tế và xã hội của đại dịch đã giảm mạnh trong giai đoạn xem xét.
Kể từ khi đại dịch bùng phát, 443 biện pháp liên quan đến thương mại và thương mại liên quan đến COVID-19 trong lĩnh vực hàng hóa đã được các Thành viên WTO và Quan sát viên đưa ra. Hầu hết là tạo thuận lợi thương mại (246 hoặc 56%), trong khi phần còn lại là hạn chế thương mại (197 hoặc 44%). Các thành viên tiếp tục loại bỏ dần các biện pháp đo lường liên quan đến đại dịch, và đặc biệt là các biện pháp hạn chế, trong giai đoạn xem xét. Theo thông tin mà Ban thư ký nhận được, tính đến giữa tháng 10 năm 2022, 79,2% các hạn chế thương mại liên quan đến COVID-19 đã được bãi bỏ, để lại 27 hạn chế xuất khẩu và 14 hạn chế nhập khẩu. Mặc dù số lượng các hạn chế thương mại liên quan đến đại dịch vẫn còn tồn tại đã giảm, nhưng mức độ bao phủ thương mại của chúng vẫn quan trọng ở mức 134,6 tỷ USD.
Các Thành viên WTO tiếp tục sử dụng các cơ chế minh bạch của Ủy ban SPS và TBT để thông báo các biện pháp vệ sinh và kiểm dịch động thực vật (SPS) và các biện pháp rào cản kỹ thuật đối với thương mại (TBT) của họ, đồng thời thảo luận và thường xuyên giải quyết các mối quan ngại thương mại cụ thể (STC) một cách không kiện tụng. An toàn thực phẩm là mục tiêu thường xuyên nhất được xác định trong các thông báo SPS thường xuyên do các Thành viên WTO đệ trình trong giai đoạn xem xét. Hầu hết các mối quan ngại thương mại cụ thể (STC) mới được đưa ra trong Ủy ban SPS trong giai đoạn xem xét cũng liên quan đến an toàn thực phẩm. Các thành viên WTO đã gửi 127 thông báo SPS và thông tin liên lạc về các biện pháp được thực hiện để đối phó với đại dịch.
Hầu hết các thông báo TBT thông thường mới do các Thành viên WTO đệ trình trong giai đoạn xem xét đều chỉ ra rằng mục tiêu chính của họ là bảo vệ sức khỏe và sự an toàn của con người. Tổng cộng có 249 STC đã được thảo luận trong giai đoạn xem xét. Các thành viên đã đệ trình 225 thông báo TBT liên quan đến COVID-19 lên WTO để đối phó với đại dịch.
Các thành viên tiếp tục sử dụng các cơ quan của WTO để giải quyết các mối quan ngại về thương mại của họ và thu hút các đối tác thương mại vào các lĩnh vực xung đột thương mại thực sự hoặc tiềm ẩn.
Tại Ủy ban Nông nghiệp (CoA), các Thành viên đã đặt ra 344 câu hỏi liên quan đến các thông báo riêng lẻ, thông báo quá hạn và các vấn đề triển khai cụ thể (SIM) theo Điều 18.6. Hầu hết trong số này (64%) tập trung vào các thông báo hoặc chính sách hỗ trợ trong nước của các Thành viên.
Các thành viên WTO tiếp tục tinh chỉnh các khuôn khổ IP trong nước của họ và thực hiện các biện pháp IP cụ thể để tạo điều kiện phát triển và phổ biến các công nghệ y tế liên quan đến COVID-19. Tốc độ thực hiện các biện pháp cụ thể liên quan đến công nghệ y tế COVID-19 đã chậm lại trong giai đoạn xem xét.
Báo cáo cũng đề cập đến một số phát triển và thảo luận quan trọng khác liên quan đến thương mại diễn ra trong giai đoạn xem xét, bao gồm quy định trong nước về dịch vụ, thương mại điện tử, tạo thuận lợi đầu tư cho phát triển, doanh nghiệp siêu nhỏ, nhỏ và vừa (MSMEs), tài trợ thương mại, và trao quyền kinh tế cho phụ nữ.
Để biết thêm thông tin, bấm vào đây để truy cập Báo cáo.
Nguồn: WTO
