Tin tức

WTO giới thiệu Hồ sơ thuế quan thế giới phiên bản 2022


Các bảng tóm tắt ở đầu ấn phẩm cung cấp các so sánh giữa các quốc gia về mức thuế "ràng buộc" trung bình hoặc mức tối đa mà mỗi nền kinh tế có thể áp dụng đối với hàng nhập khẩu từ các thành viên WTO khác và mức thuế trung bình mà nền kinh tế đó áp dụng trong thực tế

Các bảng tóm tắt ở đầu ấn phẩm cung cấp các so sánh giữa các quốc gia về mức thuế "ràng buộc" trung bình hoặc mức tối đa mà mỗi nền kinh tế có thể áp dụng đối với hàng nhập khẩu từ các thành viên WTO khác và mức thuế trung bình mà nền kinh tế đó áp dụng trong thực tế. Dữ liệu được cung cấp cho danh mục "tất cả các sản phẩm" cũng như cho các sản phẩm nông nghiệp và phi nông nghiệp. Hồ sơ xuất nhập khẩu cung cấp các so sánh giữa các quốc gia về giá trị nhập khẩu, đa dạng hóa xuất khẩu và dữ liệu thuế quan có liên quan.

Hồ sơ một trang trong Phần 2 của báo cáo cung cấp dữ liệu chi tiết hơn cho từng nền kinh tế, với các mức thuế được chia nhỏ theo nhóm sản phẩm. Mỗi hồ sơ cũng cho thấy các đối tác thương mại chính của nền kinh tế và thuế quan mà các thị trường này đánh vào hàng xuất khẩu của họ.

Số liệu thống kê về các biện pháp phi thuế quan (NTM), như biện pháp chống bán phá giá, biện pháp chống trợ cấp và tự vệ, bổ sung cho dữ liệu về thuế quan.

Phiên bản này cũng bao gồm hai chủ đề đặc biệt. Đầu tiên phân tích các quy tắc xuất xứ ưu đãi trong thương mại quốc tế. Nó thảo luận về sự phức tạp liên quan đến việc xác định liệu thuế nhập khẩu ưu đãi có sẵn có thể được sử dụng hay không và nhấn mạnh rằng các quy tắc kỹ thuật cao và phức tạp là một trong những yếu tố chính cản trở việc sử dụng đối xử ưu đãi theo các hiệp định thương mại.

Chủ đề đặc biệt thứ hai xem xét việc sử dụng các biện pháp phi thuế quan đối với các sản phẩm năng lượng "xanh" và "nâu". Báo cáo lưu ý rằng quá trình chuyển đổi từ nhiên liệu hóa thạch sang năng lượng tái tạo để ứng phó với biến đổi khí hậu càng làm tăng thêm tính cấp bách đối với tự do hóa thương mại các sản phẩm xanh. Phân tích cho thấy rằng các biện pháp phi thuế quan hiện đang phổ biến đối với các sản phẩm năng lượng nâu hơn là các sản phẩm xanh xét về tần suất sử dụng, mức độ bao phủ và mức độ phổ biến. Một trong những lý do cho điều này có thể là do sản phẩm xanh thường là sản phẩm đổi mới và các quốc gia chưa xây dựng quy định cho những sản phẩm đó.

Nhấn vào đây để truy cập ấn phẩm

Nguồn: WTO


Bài viết liên quan