Ý kiến của Chủ tịch phiên họp
Đây là cuộc họp cuối cùng của Đại sứ Gloria Abraham Peralta trên cương vị Chủ tịch trước khi Đại sứ kết thúc nhiệm kỳ về nước. Mục đích cuộc họp để Chủ tịch trình bày báo cáo và suy nghĩ cá nhân về công việc sau Hội nghị Bộ trưởng MC12 đồng thời để các Thành viên chia sẻ đánh giá về công tác đàm phán sau Hội nghị MC12 cũng như về các đề xuất ban đầu cần tiến hành thời gian tới.
Trong báo cáo của mình, Chủ tịch cho biết Hội nghị Bộ trưởng MC12 vừa qua là một thành công lớn của WTO. Hội nghị đã thông qua Quyết định về việc miễn áp dụng quy định cấm hoặc hạn chế xuất khẩu đối với việc mua lương thực của Chương trình Lương thực Thế giới (WFP) và Tuyên bố về ứng phó khẩn cấp đối với vấn đề mất an ninh lương thực. Mặc dù đã có nhiều nỗ lực, đặc biệt trong giai đoạn đàm phán cuối ngay trước khi Hội nghị MC12 diễn ra, tuy nhiên do quan điểm các Thành viên còn nhiều khác biệt, Hội nghị đã chưa thống nhất được về thỏa thuận chính trong đàm phán nông nghiệp. Đại sứ Gloria Abraham đã điểm lại các công việc và kết quả chính đã đạt được trong thời gian đúng 2 năm kể từ ngày 21/7/2020 khi Đại sứ được bầu là Chủ tịch Phiên đặc biệt.
Cụ thể: Trong 2 năm qua, các Thành viên đã đưa ra 40 đề xuất cải cách khác nhau và đã tiến hành được 23 cuộc họp không chính thức Phiên đặc biệt và 17 phiên chuyên đề liên quan nội dung dự trữ công vì mục đích an ninh lương thực (PSH) và cơ chế tự vệ đặc biệt (SSM).
Liên quan từng nội dung đàm phán cụ thể trong hai năm qua, Chủ tịch cho biết:
Về hỗ trợ trong nước: Đây là nội dung trọng tâm và kỳ vọng của các Thành viên bao gồm các Thành viên phát triển và đang phát triển trong đàm phán nông nghiệp kể từ khi đàm phán bắt đầu vào năm 2000. Mặc dù đều thống nhất cần giải quyết vấn đề hỗ trợ trong nước có tính bóp méo thương mại, quan điểm của các Thành viên còn khác nhau nhiều, cụ thể về biện pháp để đạt mục tiêu đó; về mức độ tác động bóp méo thương mại của từng loại hỗ trợ (loại hỗ trợ nào cần cải cách cũng như phương thức cải cách); về mục tiêu với số liệu cụ thể cần hướng tới (ví dụ cắt giảm 50%) và thời gian biểu thực hiện (ví dụ vào năm 2030); các bước cải cách cần tiến hành (ví dụ: hỗ trợ gộp AMS không thuộc phạm vi hỗ trợ mức tối thiểu de minimis cần cải cách trước hay toàn bộ các loại hỗ trợ cần được giải quyết song song). Các quy định hiện nay cho phép các Thành viên tiếp cận khối lượng hỗ trợ trong nước lớn hơn nhiều so với mức hỗ trợ hiện nay các Thành viên đang sử dụng. Theo một số nguồn tin, từ năm 2001 mức tăng trưởng các khoản hỗ trợ trong nước có tính bóp méo thương mại các Thành viên được phép sử dụng gồm hỗ trợ gộp AMS và mức tối thiểu de minimis đã tăng từ 322 tỷ USD lên tới khoảng 740 tỷ USD năm 2016 và dự kiến sẽ đạt 2.000 tỷ USD vào năm 2030 nếu không có biện pháp giám sát. Theo Chủ tịch, các Thành viên cần tiếp tục đàm phán để thống nhất về các phương thức quy định rõ đối với các khoản hỗ trợ có tính bóp méo thương mại với thời gian biểu thực hiện rõ ràng. Các Thành viên còn nợ chưa thực hiện được cải cách này đã lâu. Với việc cắt giảm các hình thức hỗ trợ có tính bóp méo thương mại, các Thành viên có thể dành nguồn lực đó để hỗ trợ nông dân một cách ít bóp méo thương mại và bền vững hơn, đóng góp không chỉ vào việc đảm bảo an ninh lương thực hôm nay mà cả đối với an ninh lương thực trong tương lai.
Liên quan tiếp cận thị trường: Đây là nội dung quan trọng trong đàm phán nông nghiệp cả về phương diện lợi ích việc tự do hóa thuế quan đem lại cũng như để có thể đạt được sự hài hòa chung trong kết quả cải cách nông nghiệp. Tuy nhiên do vấn đề tự do hóa thuế quan có tính nhạy cảm về chính trị đối với nhiều Thành viên nên trong nhiều năm qua các Thành viên đã không tham gia một cách nghiêm túc trong đàm phán phương thức cắt giảm thuế. Các Thành viên chỉ tham gia đàm phán ở mức độ nhất định đối với yếu tố minh bạch hóa trong trụ cột tiếp cận thị trường và bàn sơ bộ về cách tiếp cận trong đàm phán các yếu tố thị trường cốt lõi bao gồm các phương thức cắt giảm thuế quan. Chủ tịch cho rằng đàm phán thời gian tới cần áp dụng cách tiếp cận giải quyết cả hai nội dung này trong đó phải xử lý cả vấn đề quan hệ có tính chính trị trong khuôn khổ và ngoài khuôn khổ đàm phán nông nghiệp.
Về cạnh tranh xuất khẩu: Thời gian qua đàm phán chủ yếu tập trung vấn đề minh bạch hóa, cụ thể là đảm bảo việc thực hiện và giám sát hiệu quả Quyết định Hội nghị Bộ trưởng Nai-rô-bi năm 2015 về cạnh tranh xuất khẩu. Theo Chủ tịch, vấn đề nâng cao tính minh bạch nhìn chung phải là quá trình liên tục. Các Thành viên cần tiếp tục thực hiện các công việc có tính kỹ thuật được tiến hành trong các tháng ngay trước Hội nghị Bộ trưởng MC12 dựa trên các quy định hiện hành trong đó có tính tới các hạn chế về năng lực của các Thành viên đang phát triển và sự hỗ trợ của Ban Thư ký.
Liên quan nội dung hạn chế xuất khẩu: Đại dịch xảy ra đồng thời với các cuộc xung đột càng cho thấy sự cần thiết phải có được hệ thống thương mại nông nghiệp mở và có thể dự báo được. Trong bối cảnh đó, sau nhiều nỗ lực không biết mệt mỏi, các Thành viên đã đạt được thỏa thuận tại Hội nghị Bộ trưởng MC12 về việc không áp dụng hạn chế xuất khẩu đối với việc mua lương thực với mục đích nhân đạo của Chương trình Lương thực Thế giới (WFP). Một kết quả khác cũng đã đạt được tại Hội nghị MC12 là việc thông qua Tuyên bố về việc ứng phó khẩn cấp đối với vấn đề mất an ninh lương thực, theo đó các Thành viên khẳng định không áp dụng việc cấm hoặc hạn chế xuất khẩu nếu việc cấm và hạn chế đó không phù hợp với các quy định của WTO. Bên cạnh các kết quả khả quan đã đạt được, nhiều việc tiếp tục phải được triển khai. Nhiều Thành viên cho rằng cần cung cấp đầy đủ, kịp thời thông tin liên quan hạn chế xuất khẩu thông qua cơ chế minh bạch hóa liên quan tại WTO, đặc biệt trong trường hợp khủng hoảng.
Về bông: Nhóm các Thành viên C-4 và nhiều Thành viên khác xem bông là lĩnh vực ưu tiên do vai trò của nó đối với việc phát triển kinh tế-xã hội và sinh kế, đặc biệt đối với các Thành viên chậm phát triển. Đại hội đồng WTO đã khẳng định tầm quan trọng của bông trong đàm phán 15 năm trước. Mặc dù có nhiều nỗ lực, việc thảo luận nội dung hỗ trợ trong nước có tính bóp méo thương mại cụ thể liên quan bông – vấn đề cốt lõi trong đàm phán về bông - trong những năm gần đây không được nhiều Thành viên quan tâm. Chủ tịch cho rằng cần có cách tiếp cận mới với sự trao đổi thẳng thắn giữa các bên ủng hộ cải cách và các bên có vai trò quan trọng khác.
Liên quan cơ chế tự vệ đặc biệt (SSM): Quan điểm giữa các Thành viên còn nhiều khác biệt đặc biệt liên quan mối quan hệ giữa nội dung tiếp cận thị trường và SSM đã cản trở các cuộc thảo luận nghiêm túc kể từ khi phiên họp chuyên đề về vấn đề này bắt đầu diễn ra sau khi Quyết định Hội nghị Bộ trưởng tại Nai-rô-bi được thông qua. Các Thành viên ủng hộ cho rằng SSM là cần thiết để giải quyết vấn đề nhập khẩu tăng và giá thành giảm và không phụ thuộc vào đàm phán tiếp cận thị trường. SSM cũng cần thiết để bảo vệ nông dân với quy mô sản xuất nhỏ, dễ bị tổn thương trước các rủi ro do giá cả thị trường toàn cầu dao động và là biện pháp tự vệ trước tác động tiêu cực của việc nhập khẩu được trợ cấp. Còn theo quan điểm của các Thành viên không ủng hộ, SSM liên quan trực tiếp đến vấn đề tự do hóa thuế quan và công việc đàm phán đang diễn ra về tiếp cận thị trường. Các Thành viên này cho rằng SSM không được làm đảo ngược các cam kết về tiếp cận thị trường hiện nay. Theo quan điểm của Chủ tịch Phiên đặc biệt, cách duy nhất hiện nay là các Thành viên cần tăng cường trao đổi về các vấn đề kỹ thuật liên quan cơ chế tự vệ thương mại SSM để hiểu rõ về lập trường và quan ngại nhằm tạo chuyển biến trong đàm phán.
Về vấn đề dự trữ công vì mục đích an ninh lương thực (PSH): Đây là vấn đề có nhiều thách thức nhất trong đàm phán chung về nông nghiệp do quan điểm rất khác biệt của các Thành viên. Đối với các Thành viên ủng hộ, đây là nội dung ưu tiên và là công cụ hữu ích để giải quyết vấn đề an ninh lương thực và sinh kế nông thôn. Trong khi giải pháp tạm thời được thông qua tại Hội nghị Bộ trưởng tại Ba-li vẫn còn hiệu lực đối với các chương trình tồn tại trước năm 2013, các Thành viên đã không thể thống nhất được về một giải pháp lâu dài, vĩnh viễn cho vấn đề này cho đến nay. Thời hạn phải thông qua giải pháp vĩnh viễn năm 2017 đã trôi qua. Quan điểm của các Thành viên ủng hộ và không ủng hộ vẫn không thay đổi. Trong khi các Thành viên thừa nhận vai trò của các chương trình PSH trong việc hỗ trợ an ninh lương thực và nhiệm vụ Hội nghị Bộ trưởng tại Ba-li và Nai-rô-bi giao, các Thành viên không ủng hộ tiếp tục quan ngại về các khoản hỗ trợ giá thị trường vượt ra ngoài khuôn khổ cam kết tại Vòng Đàm phán U-ru-gu-ay và khả năng tác động ngoài ý muốn đối với thương mại và an ninh lương thực của các Thành viên khác. Vì vậy, các Thành viên này đề nghị phải có được các tiến bộ song song trong đàm phán nội dung hỗ trợ trong nước và yêu cầu phải được cung cấp thêm thông tin về việc sử dụng các chương trình PSH hiện nay. Các Thành viên này muốn có các quy định tự vệ và minh bạch hóa. Nhiều Thành viên nhấn mạnh chương trình PSH chỉ là một trong nhiều công cụ để đảm bảo an ninh lương thực và cần sử dụng biện pháp ít bóp méo thương mại nhất. Chủ tịch Phiên đặc biệt cho rằng các Thành viên cần tiếp tục thảo luận tìm ra giải pháp dung hòa đối với vấn đề này đối với cả bên ủng hộ và không ủng hộ.
Liên quan nội dung minh bạch hóa: Minh bạch hóa là nội dung xuyên suốt liên quan tất cả 7 chủ đề căn bản trong đàm phán. Minh bạch hóa mới được đưa vào đàm phán thời gian gần đây với tính chất là một nội dung riêng biệt trong cả gói đàm phán. Thảo luận thời gian qua cho thấy các Thành viên đều quan tâm nâng cao tính minh bạch nhằm phục vụ lợi ích tất cả các bên. Vì vậy, theo Chủ tịch Phiên đặc biệt, tiến bộ có thể đạt được nếu có được cách tiếp cận mang tính kỹ thuật và có tính thực tế theo từng trường hợp cụ thể trong đó có tính tới các hạn chế về năng lực của các Thành viên đang phát triển và được Ban Thư ký WTO hỗ trợ.
Chủ tịch Phiên đặc biệt cũng đã chia sẻ suy nghĩ của mình về công việc đàm phán sau Hội nghị Bộ trưởng MC12 và chuẩn bị cho Hội nghị MC13 theo đó các Thành viên nên xem xét kinh nghiệm đàm phán vừa qua, tránh lặp lại các sai lầm cũ và đưa ra các sáng kiến, cách tiếp cận mới. Cụ thể: Đàm phán cần dựa trên bằng chứng cụ thể để xây dựng lòng tin và giúp đưa ra quyết định phù hợp; Không phủ nhận mọi công việc đã làm mà cần xem xét, có tính kế thừa; Cần lưu ý mục đích tổng thể, ví dụ mục đích đặt ra phải giải quyết được các thách thức cũ cũng như các thách thức mới như an ninh lương thực và biến đổi khí hậu; Suy nghĩ tìm ra các cách tiếp cận mới cũng như trao đổi, thảo luận, hợp tác chặt chẽ với các đối tác liên quan.
Ý kiến của các thành viên
Sau phần báo cáo của Chủ tịch Phiên đặc biệt, đã có 36 lượt ý kiến phát biểu của các Thành viên trong đó hầu hết các ý kiến đánh giá cao các nỗ lực, đóng góp của Chủ tịch trong đàm phán. Đáng chú ý một số ý kiến phát biểu như sau:
- Úc: Đánh giá cáo và cám ơn về sự đóng góp của Chủ tịch. Tuy nhiên thất vọng về việc Hội nghị Bộ trưởng MC12 đã không thông qua quyết định trong đàm phán nông nghiệp.
- Bờ-ra-xin: Chủ tịch đã để lại dấu ấn trong đàm phán.
- Cô-lôm-bi-a: Cám ơn về việc Chủ tịch đã hoàn tất được khối lượng công việc tuyệt vời. Đàm phán nông nghiệp là một trong các nội dung rất khó tại WTO. Cám ơn Chủ tịch đã đem đến nụ cười trong mọi phiên đàm phán.
- Phi-líp-pin: Công việc Chủ tịch đã hoàn thành là tấm gương để những người đi sau noi theo.
- Ca-na-đa: Cám ơn Chủ tịch về sự lãnh đạo bình tĩnh và nhất quán.
- In-đô-nê-xi-a: Thất vọng về việc quyết định trong đàm phán nông nghiệp đã không được Hội nghị MC12 thông qua. Không chấp nhận việc từ bỏ bất kể nội dung nào đã được thông qua tại các Hội nghị Bộ trưởng trước đây.
- Pa-ra-gu-ay: Hội nghị Bộ trưởng MC12 đã không đem lại kết quả như mong muốn. Cần tiếp tục thực hiện Điều 20 Hiệp định Nông nghiệp.
- Niu-di-lân: Đại sứ Gloria Abraham là người phụ nữ đầu tiên chủ trì các cuộc họp Phiên đặc biệt Ủy ban Nông nghiệp. Bà là hình mẫu, có nhiều phẩm chất tuyệt vời mà những người đi sau khó có thể có được.
- Ca-mơ-run: Đánh giá cao sự bình tĩnh và nụ cười của Chủ tịch. Thất vọng việc các Thành viên đã không đủ linh hoạt để thông qua các quyết định vừa qua nhằm hỗ trợ các Thành viên chậm phát triển và đang phát triển song nhập khẩu ròng về lương thực.
- Nhóm ACP: Việc quyết định liên quan đàm phán nông nghiệp đã không được thông qua tại Hội nghị MC12 là tín hiệu không tích cực đối với nông dân nghèo. Tuy nhiên các Thành viên Nhóm vui mừng về việc quyết định về an ninh lương thực và liên quan Chương trình Lương thực Thế giới (WFP) đã được thông qua. Hy vọng Hội nghị Bộ trưởng MC13 sẽ thông qua các quyết định công bằng hơn. Nội dung liên quan bông cũng cần thúc đẩy vì nhiệm vụ được giao trước đây về nội dung này chưa hoàn thành.
- Trung Quốc: Đáng tiếc nội dung liên quan vấn đề dự trữ công PSH đã không được thông qua tại Hội nghị MC12. Đàm phán nông nghiệp cần hướng đi mới. Các Thành viên phát triển có nguồn lực to lớn mà các Thành viên đang phát triển không thể có được. Do vậy nguồn lực to lớn đó đã góp phần bóp méo thương mại. Các Thành viên đang phát triển cũng cần có không gian để phát triển. Trung Quốc sẵn sàng xem xét các hướng đi và sáng kiến mới phục vụ mục tiêu phát triển bền vững.
- Cốt-xơ-ta Ri-ca: Đánh giá cao đóng góp của Chủ tịch trong mấy năm đàm phán khó khăn vừa qua.
- Goa-tê-ma-la: Mọi Thành viên cần có nghĩa vụ đóng góp trong cải cách cho dù là phát triển hay đang phát triển. Đánh giá cao đóng góp của Chủ tịch. Chúng tôi tự hào về bà với tư cách đại diện cho châu Mỹ La Tinh.
- Thụy Sỹ (Thay mặt Nhóm G10): Đánh giá cao đóng góp của Chủ tịch. Nhiệm vụ vừa qua của Chủ tịch không dễ dàng. Hội nghị MC12 vừa qua đã thông qua hai quyết định liên quan an ninh lương thực và WFP. Các nội dung khác trong đàm phán cần tiếp tục được thảo luận. Cần có cách tiếp cận sáng tạo và hài hòa thời gian tới.
- Ác-hen-ti-na: Thống nhất như một số Thành viên đã phát biểu: Chủ tịch
có nhiều phẩm chất và làm được nhiều việc tuyệt vời mà những người đi sau khó có thể làm được.
- EU: Hoan nghênh các kết quả đã đạt được tại Hội nghị MC12. An ninh lương thực là chìa khóa của thành công. Việc xâm lấn của LB Nga vẫn đang diễn ra. 20 triệu tấn lương thực của U-cơ-rai-na đã không thể xuất khẩu được. 2 quyết định liên quan nông nghiệp đã được Hội nghị MC12 thông qua cho thấy WTO có thể thực hiện được nhiều việc. Hỗ trợ trong nước có tính bóp méo thương mại và minh bạch hóa là hai nội dung ưu tiên chúng tôi quan tâm. Rất cám ơn Chủ tịch đã có các đóng góp để quan điểm của các Thành viên tiến lại gần nhau hơn.
- Hoa Kỳ: Đại sứ Gloria Abraham chủ trì Phiên đặc biệt vào giai đoạn khó khăn của WTO trong đó có việc LB Nga xâm lấn U-cờ-rai-na. Chúng tôi đánh giá cao tính chuyên nghiệp, công bằng và bình tĩnh của Chủ tịch. Về cơ bản quan điểm của các Thành viên vẫn có khác biệt. Việc Hội nghị MC12 không thông qua quyết định liên quan nông nghiệp không phải là thất bại mà là thời điểm chuyển giao sang một hướng đi mới. Chúng tôi hoan nghênh các đề xuất tổ chức sự kiện nghỉ dưỡng để cùng suy nghĩ về con đường đi sắp tới.
- Ê-cu-a-đo: Tất cả các trụ cột nông nghiệp phải được đưa ra đàm phán trong đó bao gồm cả nội dung tiếp cận thị trường.
- Ai-cập: Chủ tịch có các phẩm chất để những người đi sau noi theo. Chúng tôi đồng ý công việc đàm phán sắp tới cần xem xét thực tiễn hiện nay. Nội dung minh bạch hóa cần được áp dụng nguyên tắc đối xử đặc biệt và khác biệt.
- LB Nga: Chúng ta đều thừa nhận tầm quan trọng của vấn đề an ninh lương thực. Nhiều nước đang tiến hành các biện pháp hạn chế và cấm vận đối với chúng tôi. Đổ lỗi cho LB Nga là không công bằng. WTO cần thảo luận các vấn đề kinh tế chứ không phải các vấn đề chính trị.
- Ấn Độ: Cần thống nhất về các vấn đề đã được các hội nghị Bộ trưởng trước đây giao nhiệm vụ.
- Ni-giê-ri-a: Chúng ta đã đạt được một số thành công trong công việc song còn rất nhiều việc phải làm./.
Nguồn: Phái đoàn Việt Nam tại Geneva
